Home » » Tứ Diệu Ðế và Bát Chánh Ðạo - Phần 2 ( Chương 11 )

Tứ Diệu Ðế và Bát Chánh Ðạo - Phần 2 ( Chương 11 )

Written By Giai phap ma nguon mo on Monday, September 5, 2011 | 11:35 PM

Chương 11

Tứ Diệu Ðế và Bát Chánh Ðạo - Phần 2

---o0o---
Giới luật thứ tư trong năm giới, kềm giữ, không nói dối, nói lời không thật, cần phải được xét lại xem nó có ý nghĩa gì trong cuộc đời ta. Nếu ta thực sự chọn hành động theo lời Phật dạy, thì giới luật đó phải được đưa lên hàng đầu, vì ai cũng nói suốt cả ngày. Khi ta nói những lời thật có ý nghĩa, mọi người sẽ lắng nghe. Khi ta nói lời tử tế, người khác sẽ vui mừng. Khi ta nói lời lịch sự ta sẽ có thêm bạn. Lời chân thật, ta sẽ được uy tín.
Không có lời xiên xỏ, đâm thọc ta sẽ được tin cậy. Ta có thể tâm sự, chia sẻ với người khác về những khó khăn hay bí mật của mình. Nếu ta có thể trở nên một người như thế, ta sẽ có nhiều bạn bè và một cuộc sống bình an, vì trong tâm ta không có gì cần phải được che dấu. Ta không cần phải lo lắng về những điều mình nói, nói như thế nào, hay không biết điều mình nói có đúng không. Lời nói của ta sẽ thành dễ dàng vì đằng sau chúng là những chủ đích tốt đẹp.
Ðức Phật cũng nói về việc giảng Pháp. Cần phải chính xác, nghĩa là ta phải biết mình đang nghĩ gì, cảm giác ra làm sao. Ðiều này rất quan trọng. Mọi người khi nói Pháp, ngay cả khi nói về việc Thiền định của chính mình , cũng phải chính xác. Có nghĩa là tâm ta phải rõ ràng, lúc đó ngôn ngữ chính xác mới có thể phát ra. Ðây là những khả năng ta có thể huân tập được qua sự chánh niệm. Không phải qua những bài học về thuật hùng biện.
Chánh Nghiệp
Chánh nghiệp cũng dựa vào sự chủ tâm đúng. Nếu có chủ tâm đúng, dựa trên chánh kiến, thì chánh nghiệp sẽ theo sau. Tất cả đều tạo ra nghiệp cho ta, vì tất cả đều là kết quả của sự chủ tâm. Lời nói dựa vào chủ tâm. Hành động cũng dựa vào chủ tâm. Tất cả tạo ra nghiệp - tốt, xấu hay không tốt không xấu - không phải là cho ngay kiếp sau, mà chính là cho ngay hiện tại. Nghiệp và nghiệp quả xảy ra từng giây phút. Trừ khi ta để ý đến kết quả, ta sẽ không biết rằng chúng có liên hệ với những gì ta vừa nói, vừa nghĩ hay vừa làm.
Nhờ có chánh nghiệp ta không làm hại đến sinh vật khác dưới bất cứ hình thức nào, từ bỏ lòng tham lam ác độc. Không thể đè nén lòng thamvà sự ác độc. Chúng sẽ hiện lên bằng cách này hay cách khác. Ta cần phải có tâm buông bỏ chúng, qua sự tu tập Thiền định. Khi tọa Thiền , ta phải dứt bỏ mọi tham ái, nếu không sẽ không có Thiền định.
Chỉ có vọng tưởng, hy vọng, ước mong, sợ hãi, nhớ tưởng. Nếu không buông bỏ được những trạng thái này của tâm , thì ta khó thể tham Thiền. Thiền định là xả, buông bỏ mọi lăng xăng của tâm, ngã tưởng và ái dục. Vì ta chưa thực tập buông bỏ được nhiều, ta rất khó ngồi Thiền, nhưng lần hồi, với sự huân tập, ta sẽ dễ tọa Thiền hơn.
Cố gắng đè nén chúng không có kết quả gì, nhưng sự buông bỏ cái ý muốn suy nghĩ, nhớ tưởng, hoạch định, sẽ đem lại kết quả khả quan nhất. Buông bỏ lòng ham muốn là con đường duy nhất dẫn tới sự bình an, và khi đã kinh nghiệm được như thế, ta sẽ hiểu được rằng buông bỏ lòng ham muốn trong đời sống hàng ngày sẽ mang lại cho ta hạnh phúc.
Chánh nghiệp có thể thực hiện được trong mọi hoàn cảnh, bởi bất cứ ai,bất cứ lúc nào, dầu ở trong nhà, hay nơi công sở, hay chốn tu hành. Bất cứ nơi nào, bất cứ chúng ta là ai, tất cả chúng ta đều phải hành động. Chúng ta có thể xét xem những hành động có ích lợi cho người khác hay cho chúng ta. Ngay cả việc nấu ăn hay dọn dẹp nhà cửa cũng phải được làm với chủ đích tốt, không phải vì bổn phận, vì được yêu cầu hay vì sợ người khác.
Lý do chánh để ta làm điều đó là vì ở đúng một thời điểm nào đó, việc đó cần đuợc thực hiện với một mục đích. Quán sát kỹ, đầy chánh niệm, dần hồi ta biết được chủ đích thực sự và quan điểm của mình trong các hành động. Ta có thể thấy được sự liên kết giữa thân và tâm, mà không cần phải để ý đến những thứ bên ngoài ta. Sẽ không có sự miễn cưỡng, chống đối, mà đối với mọi việc ta đều làm với cả tấm lòng. Chỉ có như thế thì hành động của ta mới mang lại kết quả gì.
Thường người ta nghĩ rằng công việc làm ta không còn thì giờ vui chơi, tiêu khiển. Ðó rõ ràng là một cái nhìn sai lầm. Chính sự vui chơi mới là sự gián đoạn cho công việc. Dầu làm bất cứ nghề gì, công việc cũng là phương tiện để ta cảm thấy hữu ích, sống có mục đích. Công việc là phương tiện giúp ta hoàn toàn chú tâm đến thân, biết các duyên hành, duyên khởi của thân.
Công việc là cơ hội để ta giúp ích, phục vụ người , phát triển các kỹ năng và biểu lộ tình thương đến với người khác bằng cách phục vụ họ. Không có phương tiện nào tốt hơn để thanh tịnh hoá thân tâm bằng công việc. Không chỉ làm để kiếm sống hay vì người khác đòi hỏi mà làm mọi việc với tất cả tấm lòng như một phương tiện để thấu hiểu mọi việc hơn.
Chánh Mạng
Chánh mạng là một trong ba đặc tính của đức hạnh. Chánh Mạng có nghĩa là phương tiện ta kiếm sống không làm hại đến ai. Mỗi người phải tự mình biết điều đó. Có nhiều cách kiếm sống được coi là "đúng", hơn là "sai", nhưng cũng có những cách kiếm sống thật tai hại. Ðể đánh giá ta có thể dựa vào năm giới luật. Nếu cách kiếm sống của ta phạm vào một trong năm điều cấm, thì rõ ràng đó là sai.
Chánh Mạng là một yếu tố quan trọng trong sự thanh tịnh hóa, vì nếu ta theo đuổi mộc cách kiếm sống sai lầm, ta trở nên chai lỳ, và thói quen tội lỗi sẽ thành hình. Một người đồ tể , trong các lò sát sinh, chẳng hạn, phải giết chết hết mọi cảm xúc của mình mới có thể tiếp tục làm công việc này. Nếu không, anh ta khó mà làm công việc này. Một con người như thế sẽ trở nên chai cứng, không còn lòng thương xót đối với các chúng sanh.
Phải giết hại là một cách kiếm sống rất tại hại. Nói dối, uống rượu , lấy của người, tất cả là những phương tiện kiếm sống không lương thiện. Cũng có người sinh sống bằng những quan hệ tình dục sai tráí. Rõ ràng là những cách kiếm sống dựa trên ái dục, không chỉ tai hại cho bản thân người hành nghề này mà còn gây khổ lụy cho người khác. Và họ tiếp tục làm những việc này bằng cách tự biện hộ lý giải cho hành động của họ. Nhưng đó là tà kiến của họ. Trong khi muốn đi trên con đường đạo, mỗi bước đi ta cần phải dựa vào chánh kiến.
Chánh Tinh Tấn
Sự tinh tấn và năng lượng có ảnh hưởng cộng sinh. Nhờ có năng lượng , ta mới có tinh tấn. Ngược lại, nếu ta cứ tiếp tục tinh tấn, thì năng lượng càng tăng thêm. Năng lượng là nhiên liệu của sự tinh tấn, cũng như ngược lại. Tinh tấn có vẻ như đối nghịch với sự thoải mái, dễ chịu, nhưng nếu cứ tiếp tục tham Thiền, đến một lúc nào đó, ta sẽ nhận ra rằng chính nhờ có tinh tấn ta mới có được sự thoải mái, dễ chịu.
Ðức Phật đã chỉ cho ta bốn tinh tấn ba la mật làm những phương tiện hữu ích. Chúng được gọi là "ba la mật" (tối thượng) vì chúng rất hữu ích và cũng rất khó thực hiện. "Ðừng để một ý xấu dấy khởi, nếu nó chưa dấy khởi. Ðừng để nó tiếp tục, nếu nó đã phát sinh. Hãy dấy khởi ý niệm lành, nếu nó chưa phát sinh. Hãy nuôi dưỡng ý niệm lành, nếu nó đã dấy khởi ".
Ðể làm được như thế ta phải theo dõi tâm mình, và phải biết phân biệt giữa cái tốt và cái xấu. Ðó là một trong những lý do tại sao tôi đã khuyên các bạn nên đặt tên cho tư tưởng của mình, khi chúng phát sinh trong lúc tọa Thiền. Chỉ khi nào ta biết mình nghĩ gì, ta mới có thể có những biện pháp thích ứng. Ta cần biết tâm mình đang có những ác niệm hay niệm lành, cần biết phân biệt rõ ràng như thế, ta mới có thể thực hành được lời dạy trên của Ðức Phật.
Cần phải có rất nhiều chánh niệm để giữ cho các ác niệm không dấy khởi, vì ta phải biết rõ về chủ đích ở đằng sau đó. Với những tư tưởng đang dấy khởi, điều đó dễ dàng hơn. Vì thế, ta nên bắt đầu với chúng, cho đến khi ta có đủ khả năng để biết một điều gì đó không được tốt đang chực chờ bộc phát, , để ngăn chận không cho nó xuất hiện.
Khi Thiền định, mọi tư tưởng đều vô ích vì ta không mốn suy nghĩ ,mà muốn Thiền. Trong cuộc sống hàng ngày thì lại khác. Ta cần phải dẹp bỏ mọi ác niệm. Cố gắng đè nén chúng không ích lợi gì. Mà nên buông bỏ chúng, hoặc thay chúng bằng những thiện niệm. Khi tọa Thiền, ta thay thế tư tưởng bằng sự chủ tâm vào Thiền quán. Ta có làm được điều đó hiệu quả hay không trong Thiền định, sẽ phản ánh trong việc ta thực hành bốn tinh tấn ba la mật trong đời sống hàng ngày.
Ngược lại, trong đời sống hàng ngày, ta có thực hành tốt hay không bốn tinh tấn ba la mật, thì điều này lại phản ánh trong lúc ta tu tập Thiền. Những ác niệm trong đời sống hàng ngày hiện lên trong sự lăng xăng, không yên tĩnh lúc ta tọa Thiền. Trong khi những ý niệm lành luôn được nuôi dưỡng, và không bao giờ sai lệch, sẽ đem lại an bình và yên tĩnh cho tâm ta.
Nếu ta không thể nhớ gì về những điều Phật dạy trừ bốn tinh tấn ba la mật này, thì cũng là đủ. Những điều khác, nếu chúng ta có nhớ, có thể giúp ta thêm phấn khởi, thêm thanh cao, nhưng bốn ba la mật vừa nêu trên giúp người thực tập chúng dễ dàng đạt được sự thanh tịnh.
Cần phải có chánh kiến để nhận ra rằng đó là những điều chúng ta cần làm, và muốn thực hành, ta cần phải huân tập công phu. Trên cõi đời này rất ít có người hoàn toàn không có ác niệm. Vì ta tràn đầy các ác niệm nên ta phải sống trong một thế giới cũng nhiễu nhương , hỗn loạn. Không phải là các ngôi nhà cao tầng, xe cộ hay các cơ chế chính quyền làm nên thế giới này. Nhưng chính là quá trình tư duy của chúng ta đã làm nên sự khác biệt giữa chiến tranh hay hoà bình, giữa nội tâm ta và thế giới bên ngoài ta.
Ðặt tên cho các ý nghĩa của mình, có nghĩa là ta biết ta đang nghĩ gì. Tốt nhất là ta thực hành các điều này khi hành Thiền, là khi ta có thể thấy rõ ràng tâm ta luôn luôn lăng xăng. Các tư tưởng của ta có thể xấu hoặc là tốt hoặc là trung tính, không tốt không xấu, có thể là tư tưởng hoang mang, lăng xăng, lo âu hay sợ sệt, ghen ghét, ganh t?hay hoàn toàn mù mịt. Trừ khi ta biết rõ những điều này, ta không thể nhìn trở vào để tự quán sát, ta sẽ không bao giờ hiểu tại sao mình lại có những cảm giác như thế hay hành động như thế.
Bốn tinh tấn ba-la-mật là những điểm cơ bản trên con đường đạo. Trong khi hoa hương, đèn nến, tiếng chuông, chùa chiền chỉ là những thứ trang sức bên ngoài. "Ðừng để một ý xấu dấy khởi, nếu nó chưa dấy khởi. Ðừng để nó tiếp tục, nếu nó đã phát sinh. Hãy dấy khởi ý niệm lành, nếu nó chưa phát sinh. Hãy nuôi dưỡng ý niệm lành, nếu nó đã dấy khởi". Ðó là quá trình thanh tịnh hoá tư tưởng , và cũng đưa đến sự thanh tịnh hoá của lời nói và việc làm. Khi những điều đó xảy ra, ta có thể thấy rõ ràng hơn. Một tấm gương trong suốt với mặt gương sạch bóng không dính buị dơ, là tấm gương có thể phản chiếu được một hình ảnh trong sạch.
Ta cần phải tinh tiến trong bất cứ việc gì mình làm , nhất là trong lúc tọa Thiền. Vì dầu hành Thiền một cách tinh tấn, ta cũng không thể thấy những kết quả tức thời. Ðiều đó có thể khiến tâm thoái hoá, không có được sự tinh tấn ban đầu. Khi tâm đòi phải có kết quả tức thời, đó là sự trói buộc, bám viú, đòi hỏi. Ðó là lòng ham muốn, do đó đưa đến đau khổ.
Làm điều gì cũng thế. Ta thường trông mong kết quả, rồi khi kết quả không như ý, thì sinh ra chán nản, buồn rầu. Tinh tấn vì tinh tấn, không vì mong muốn kết quả. Có được chánh tinh tấn là một thiện nghiệp, không cần biết đến kết quả như thế nào. Như khi tham Thiền, dầu ta chưa thấy kết quả rõ ràng, tức thời, nghiệp thiện cũng đã được hình thành do có chủ đích tốt.
Chỉ cần có chánh tinh tấn, ta cũng đã có được lợi ích, nhưng ít khi ta để ý đến điều đó. Ta còn mãi trông đợi những phần thưởng vật chất. "Tôi đã quá cố gắng mà vẫn không thể chú tâm"hay"Tôi đã thương yêu con cái biết bao nhiêu, nhưng chúng chẳng hề biết ơn", "Tôi đã chăm sóc cho cô tôi bao nhiêu lâu, vậy mà cô ấy chưa bao giờ nói lời tử tế với tôi".
Ðó là một thái độ sai lầm. Sự cố gắng của ta đã là một nghiệp thiện, đó chính là kết quả. Không cần biết ai khác nói gì hay kết quả ra làm sao, đó là vấn đề thứ yếu. Ðôi khi ta đạt được sự chủ tâm. Ðôi khi kẻ khác hàm ơn việc ta làm cho họ. Nhưng điều đó không liên hệ đến hiệu quả của những cố gắng của ta. Nếu ta không thay đổi cách nhìn, thì ta luôn phải phụ thuộc vào kết quả. Như thế sự tinh tấn của ta sẽ lúc có, lúc không vì kết quả cũng lúc co,ù lúc không. Nếu tinh tấn không luôn có mặt, rõ ràng nó không có hiệu lực. Chánh tinh tấn cần phải luôn vững chắc.
Chánh Niệm
Kế tiếp là chánh niệm. Nếu bạn đã thực hành chánh niệm, bạn sẽ biết chánh niệm là gì. Khi ta đặt chân xuống đất và không biết đến gì khác hơn là việc đặt chân xuống đất, đó là chánh niệm. Khi đưa đũa lên miệng, ta không biết gì khác hơn là như thế, đó là chánh niệm. Ðiều đó rất khác với việc ta làm hàng ngày, nhưng nếu ta không biết sự khác biệt đó, thì ta chưa biết thực hành chánh niệm. Lúc ta hoàn toàn chánh niệm ta không thấy gì khác hơn.
Ðó là sự chủ tâm vào một điểm. Ðiều đó giúp ta quên đi những phiền não của mình, vì ta không thể nghĩ về hai điều cùng một lúc. Một trọng tâm điểm khi đem ứng dụng vào Thiền, dần dần ta sẽ có thể đạt định. Trong cuộc sống hàng ngày , sự thực hành chánh niệm giúp ta quên đi những vấn đề của ta, vì nó không còn chiếm ngự tâm ta , và trong Thiền, nó giúp ta đạt định.
Chánh niệm còn có thể giúp ta tự thanh tịnh hoá. Khi người ta biết rõ mình đang làm gì, nói gì hay nghĩ gì, người ta sẽ trở nên cẩn thận để thân, khẩu và ý đều không sai phạm, không để nó bị những hành động bản năng, cấu uế làm chủ. Bằng cách đó, ta được thanh tịnh hoá.
Ðôi khi có sự hiểu lầm về từ "chánh niệm". Chánh niệm có nghĩa là luôn luôn lúc nào ta cũng có sự chú tâm. Làm sao ta có thể sửa đổi ác nghiệp, nếu ta không chú tâm, không biết đến sự hiện diện của chúng?
Có bốn chánh niệm căn bản: chánh niệm về thân - như hành động, sự chuyển động, ba mươi hai bộ phận, dáng đi đứng , xác của thân; chánh niệm về các cảm thọ - như các giác tâm sinh lý; chánh niệm về tâm - như quá trình tư duy, biết rằng ta đang suy nghĩ, tâm đang hoạt động, biết rằng có suy tưởng và biết tư tưởng; và cuối cùng là chánh niệm về đối tượng của tâm - như biết rằng tư tưởng nào đó là cấu uế hay trong sạch.
Theo truyền thống, chánh niệm về đối tượng của tâm trước đó là coi như là sự chú tâm để xem coi phần nào là của năm uẩn hay bảy giác chi, Bát chánh đạo hay sáu trần dấy khởi. Nhưng trong thực tế, trong ứng dụng hàng ngày, điều đó quá phiền toái. Phần đông chúng ta không nhớ hết mọi chi tiết để tra xét. Chỉ cần biết tư tưởng đó có trong sạch hay ô uế là đủ rồi.
Cũng thế, rõ ràng ta khó thực hành bốn thứ chánh niệm cùng một lúc. Ta có thể lựa chọn khi hành Thiền. Hoặc là chú tâm vào hơi thở vào ra, hay đi Thiền hành, cả hai việc này đều khiến ta phải quán thân. Hay ta có thể quán về các cảm thọ do tâm sinh lý gây ra. Nếu ta nhận thấy mình bị phiền não vì vọng tưởng, thì đó là kết quả của sự quán tâm. Khi ta đặt tên cho các vọng niệm, và biết đó là thương, ghét , từ, sân thì là ta đang thực hành quán về đối tượng của tâm. Tóm lại, khi tham Thiền, chính ta là người lựa chọn đặt sự chú tâm của mình vào đâu.
Nhưng trong cuộc sống hàng ngày thì khác. Ta phải đặt chú tâm vào việc gì đúng ở thời điểm nó đang xảy ra. Thí dụ như khi đang băng qua một con đường có nhiều xe cộ, mà ta lại phải chú tâm vào từng bước chân của mình, thì e rằng đó không phải là một cách giữ mạng sống.
Ta phải chú ý xe cộ chạy ra làm sao. Trong trường hợp này, có nghĩa là ta phải chú tâm vào những gì đang xảy ra quanh ta. Hay khi đang trò chuyện qua điện thoại, chắc ta khó chú tâm vào cái ống nghe, vì làm thế thì ta sẽ chẳng biết mình nói gì. Ta phải chú tâm vào quá trình tư duy và kết quả của nó là những lời ta nói ra. Bất cứ gì hợp lý, đó là nơi ta phải đặt chú tâm vào.
Chánh niệm là một yếu tố tâm linh mà ta có thể và phải thực tập mỗi giây phút tỉnh thức. Có hai mươi bốn giờ trong một ngày, và nếu mọi việc suôn sẻ, ta có thể tham Thiền một tiếng vào buổi sáng, một tiếng buổi tối. Ta có thể ngủ sáu hay bảy tiếng, như vậy ta còn lại khoảng mười lăm tiếng mỗi ngày. Nếu suốt thời gian đó ta không nhớ để chánh niệm, thì chi bằng ta quên luôn việc hành Thiền và thực tập lời Phật dạy. Nếu ta làm thế thì ta chỉ có giỏi nói mà quên thực hành.
Khi ta luôn thực hành chánh niệm, dần dần nósẽ trở thành một thói quen, giúp cho cuộc sống ta ít phiền não, vì nhờ chánh niệm ta có thể tránh được những sai lầm, vấp ngã. Chánh niệm giống như bàn thắng của xe. Lái xe mà không có thắng thì xiết bao nguy hiểm. Nếu ta sống cuộc đời không có chánh niệm, thì cũng nguy hiểm như thế. Lúc nào ta cũng có thể va vấp, đụng chạm người khác, tự làm hại mình, hại người.
Khi ta thực tập chánh niệm, không có nghĩa là ta trở nên thụ động, và phản ứng theo ý muốn của người khác. Ðó không phải là chánh niệm, đó là nhượng bộ. Chánh niệm là biết rõ mình đang nghĩ gì, cảm thâý gì, hành động ra sao. Khi ta biết như thế, ta sẽ trở nên chú tâm đến phản ứng của ta hơn. Ta sẽ không nghĩ đến việc hành động theo như ý người khác. Mà ta sẽ quan tâm đến việc tự thanh tịnh hóa mình.
Chánh tinh tấn - bốn tinh tấn ba la mật - chỉ có thể thành công nếu đi đôi với chánh niệm. Hơn thế nữa, tất cả mọi chi nhánh của Bát chánh đạo đều cần có sự hỗ trợ của chánh niệm.
Chánh niệm đi đôi với cái biết rõ ràng. Chánh niệm là yếu tố biết - chỉ có cái biết - đã được diễn tả đầy đủ trong một bài thơ Haiku của Nhật như sau:
Ao cũ
Cóc nhảy vào
Phộp.
Khi con cóc nhảy vào một ao hồ, có rất nhiều việc xảy ra, mặt nước gợn sóng, con cóc biến mất, có thể có ánh sáng mặt trời lấp lánh trên mặt ao. Tất cả những thứ này đều là yếu tố thêm thắt. Trong khi chánh niệm đi vào trọng tâm, điểm chánh yếu, và đó là tiếng "Phộp". Ðó là tất cả. Ðó là trọng điểm.
Chỉ có cái biết, cùng với bạn đồng hành của nó là sự thấu suốt. Tính thấu suốt giúp ta biết ngay việc gì đang xảy ra, để sử dụng cái biết đó. Tính thấu suốt gồm bốn phần: biết mục đích, biết phương tiện có khéo léo không, biết mục đích và phương tiện có nằm trong Pháp không; và biết rằng người ta có đạt được mục đích không.
Khi ta nói không với một mục đích gì, tức là ta đã bỏ quên chánh niệm và tánh thấu suốt. Khi ta nói có mục đích, nhưng không biết diễn tả như thế nào, tức là ta không có phương tiện khéo léo. Sự chú tâm phân biệt giúp ta biết thân, khẩu và ý của mình có nằm trong Pháp chân thật không. Nếu ta không đạt được kết quả mong muốn, thì rõ ràng là ta đã không dùng đúng phương tiện. Chánh niệm trong lời nói và hành động cần có tính thấu suốt đi kèm:
biết mục đích, phương tiện khéo léo, tuân theo Pháp giới và kết quả. Khi ta sống có chánh niệm, sự chú tâm của ta khác hẳn bình thường. Chúng ta biết việc gì đang xảy ra nhưng không quan tâm đến nó. Khi sân nổi lên, ta biết nó đang dấy khởi, nhưng ta không cần phải trở nên giận dữ. Ðó là một kỹ năng tuyệt vời. Khi chán nản, ta biết chán nản đang dấy khởi, nhưng ta không phải trở nên chán nản, hay tuyệt vọng. Ta chỉ biết sự dấy khởi và sự đoạn diệt của mọi trạng thái tâm.
Chánh niệm là cho mọi người, ai cũng có thể sử dụng nó để sinh tồn, nhưng vì vấn đề tranh đấu để sinh tồn chỉ là hoài công, nên tốt hơn, ta nên sử dụng nó vào việc giải thoát, Giác Ngộ. Chánh niệm là một phương tiện khéo léo, và thấu suốt, là trí tuệ giúp ta phân biệt. Chánh niệm không có sự phán đoán, nhưng thấu suốt có yếu tố phân biệt, vì thế ta có thể thay đổi hướng đi nếu cần thiết.
Chánh Ðịnh
Khi vào sâu trong Thiền định, ta có thể tìm được chánh định, là điều Ðức Phật đã nói đến trong nhiều bài giảng như con đường, như phương tiện, chứ không phải là mục đích.
Chánh định căn bản vẫn cần các chi nhánh khác của Bát chánh đạo. Nếu không có giới hạnh, không có chánh tư duy, chánh kiến, chánh tinh tấn, thì không thể có được chánh định. Vì thế chánh định được nhắc đến sau cùng. Và cũng vì nó là điểm khởi hành của ta từ một người bình thường trở thành người có Giác Ngộ. Chánh kiến đứng ở vị trí đầu tiên trong Bát chánh đạo, vì không có chánh kiến, không có gì có thể xảy ra. Chánh định đứng ở vị trí cuối vì nó cần tất cả những yếu tố khác để có thể thành hình và tạo ra phương tiện để đạt được sự tự tại.
Khi đã có chánh định, và đã cố gắng soi rọi lại nội tâm mình, lúc đó chánh kiến lại rõ ràng hơn. Ðó là chánh kiến về sự giải thoát. Như thế cuối cùng ta đã đi hết vòng tròn để trở lại với chánh kiến về  "cái ngã", tức là vô ngã. Chúng ta không thể tìm thấy cái "vô ngã". Chúng ta không thể tìm thấy cái gì không có mặt. Vì thế ta phải luôn chất vấn, tìm hiểu về cái gì mà ta tin là "tự ngã".
Chúng ta tin vào thân, vào thọ, tư duy, tâm hành là cái ta. Thì ta cần phải xem xét lại tất cả những gì được coi là "cái tôi" ấy. Trừ khi ta biết rõ ràng về "cái ngã" đang có trong tay, làm chủ nó, nếu không ta không thể buông bỏ nó. Nếu tôi không biết cái đồng hồ của mình ở đâu, nếu tôi không có nó ở trong tay, thì tôi không thể bỏ nó đi. Tôi chỉ có thể làm được điều đó khi tôi biết đích xác nó là gì, đang ở đâu. Nếu tôi đi tìm đồng hồ mà không thấy, thì tôi không thể làm gì được với nó cả. Ðối với "cái ngã" của ta cũng thế.
Cuộc truy tìm là về "cái ta". Cái thân này là gì? Ðó có thật là "tôi", là "của tôi" không? Nếu nó là cái xác, nó có còn là "tôi" không? Những cảm thọ này có thật là của tôi không? Tại sao chúng lại đến, khi tôi chẳng mong chờ? Tại sao tôi có những ý tưởng chỉ làm tôi đau khổ? Ai đang đau khổ? Ai là "tôi"? Có phải là "cái tôi" của ngày hôm qua, hôm nay hay ngày mai? Cứ như thế, những câu hỏi để tìm ra ở đâu là "cái tôi", cái gì là "tôi". Và cuối cùng khi tôi tìm ra được nó, lúc đó tôi mới có thể buông bỏ được ảo tưởng về nó.
Tóm lại, để tìm hiểu về "vô ngã", ta phải bắt đầu với "cái ngã", và khi nó trở nên ngày một rõ ràng đó chỉ là tư duy sai lầm về "cái ngã", nó cũng trở nên rõ ràng là quá trình tư duy của ta có thể chuyển hệ.
Tất cả những yếu tố ta đã bàn ở đây chỉ là con đường, là phương tiện để làm giảm bớt lòng chấp ngã, làm cho nó trở thành nhỏ hơn. Ðịnh là một yếu tố quan trọng, vì lúc mà tâm hoàn toàn định, thì không còn tư tưởng như "tôi là, tôi có thể, tôi sẽ, tôi muốn, tôi không muốn". Khi Thiền định được thực hành thường xuyên "cái tôi" thường nhỏ lại, và người ta có thể nhìn sự việc một cách rõ ràng hơn. Ngược lại, nếu ta không tu tập định hay chú tâm, ngã chấp của ta vẫn không thay đổi.
Bát chánh đạo đi từ cái nhìn đúng một cách tương đối tới cái chánh kiến tuyệt đối,và cuối cùng, chính con người trở nên Bát chánh đạo. Lúc đó không cần phải thực tập Bát chánh đạo nữa hay cố gắng để nhớ tới chúng. Không cần phải cố gắng với từng bước, vì Bát chánh đạo đã trở thành bản năng tự nhiên của ta. A-la-hán lúc nào cũng có chánh kiến, chánh tư duy. Các Ngài không có tà ngữ, hành động sai trái hay nghịch mạng. Nhưng lúc nào cũng chánh tinh tấn, chánh niệm, và chánh định. Với chúng ta mỗi ngày một ít. Chỉ có thực hành mới giúp ta hoàn thiện Bát chánh đạo.
Chánh ngữ thường được hiểu là không nói lời điêu ngoa, không nói chuyện người, nói hai lưỡi, nói đâm thọc, nói lời dữ ác hay chửi rủa người khác. Ðức Phật dạy rằng lời nói có thể gây thù hay kết bạn, đem lại hạnh phúc gia đình hay đổ vỡ. Nó là cội rễ của tình bạn đậm đà hay gây nên oán thù. Ðức Phật cũng nói rằng chánh ngữ cũng có nghĩa là không đi đến cực đoan, nghĩa là lúc quá nhiều lời, lúc cạy miệng không ra. Làm thế nào cũng bằng nói dối. Nó bắt nguồn từ ý muốn làm mình thêm quan trọng.
Khi La Hầu La, con của Ðức Phật, được 7 tuổi, Ðức Phật đã dạy con về việc không nói dối, là điều quan trọng cho trẻ con cũng như người lớn. Nếu điều đó không quan trọng đến việc dạy dỗ cho La Hầu La, Ðức Phật đã không nói đến. Ðức Phật cho con coi một cái bình có ít nước trong đó và nói với La Hầu La: "La Hầu La thấy gì trong đây?"
Ðứa trẻ trả lời: "Con thấy một ít nước". Ðức Phật nói: "Lòng tin cậy của người khác đối với kẻ nói dối cũng ít như thế". Rồi Ngài đổ nước ra khỏi bình nói: "Giờ thì con thấy gì?" La Hầu La trả lời: "Cái bình giờ trống rỗng". Ðức Phật nói: "Ðúng vậy, người nói dối cũng trống rỗng giống như thế". Rồi Ngài lật ngược cái bình lại , nói: "La Hầu La giờ con thấy gì?" La Hầu La đáp: "Cái bình bị úp xuống ". Ðức Phật nói: "Ðúng vậy, người mà nói dối thì cuộc đời của họ sẽ bị đảo lộn như thế".
Nói dối là bước khởi đầu để phạm mọi giới luật khác. Người ta nói dối để tự bảo vệ mình, vì tham lam, để được nhiều hơn phần mình đáng được, đôi khi vì lòng sân hận, người ta nói dối để hãm hại người khác.
Lời nói dựa vào tư tưởng, vì thế nếu ta có thể chế ngự tư tưởng của mình, ta mới có thể chế ngự được lời nói. Chúng ta sẽ chánh niệm những gì chúng ta suy nghĩ, để đổi nó từ xấu xa đến thanh tịnh. Nếu ta không thể học kềm chế lời nói của mình, ta sẽ không có nhiều bạn.
Mặt khác ta phải nói lời có ý nghĩa. Tán gẫu cũng là tà ngữ. Thí dụ chỉ nói để mà nói, như là nói chuyện gia đình, đồ ăn uống, thời tiết , thăm hỏi xã giao. Nói để giải khuây , giết thời giờ. Trừ khi ta có chánh niệm, biết rõ điều mình nói, bằng không ta nên giữ im lặng, quán xét tâm của mình.
Chánh ngữ là một trong ba mươi tám căn lành trong bài Kinh Ðại Hạnh Phúc (Great Blessings Discourse). Thật là may mắn, nếu ta biết nói lời tử tế, lịch sự đầy ý nghĩa, đầy chân thật. Hai người có thể nói cùng một điều, với hai chủ đích khác nhau, vì thế nghiệp quả của họ cũng khác đi. Nếu ta thực sự bằng cách quán tâm của mình thì dần dần ta có thể biết được sự chủ tâm của mình, nhưng ta không thể làm thế trong khi nói.
Share this article :

0 comments:

Post a Comment