Chương 10
Mười Ðức hạnh Cao thượng - Phần 2
---o0o---
5. Năng lực
Kế tiếp là năng lực hay tinh tấn, mà ta có thể so sánh với nhiên liệu để cho máy chạy. Chúng ta phải tự chế ra nhiên liệu cho mình. Ðó cũng là một trong bảy yếu tố của Giác ngộ, nên ta có thể thấy sự quan trọng của nó như thế nào.
Năng lực có thể được sử dụng dưới nhiều hình thức. Người ta có thể bỏ ra rất nhiều năng lực để trở thành một nhà tỷ phú hay để xây một ngôi nhà hay để lợi dụng lòng tốt của ai. Tất cả những việc ta làm đều cần có năng lực.
Năng lực có thể khiến ta lăng xăng. Chạy từ việc này qua việc nọ, nghĩ thứ này, thứ kia. Nó có thể mang ta từ nơi này của thế giới đến nơi khác, cố tìm cho được cái gì có thể làm thoả mãn nó. Nếu không sử dụng năng lực đúng chỗ, nó sẽ mang đến những hậu quả tiêu cực. Chính tự nó không toàn diện. Nó chỉ là nhiên liệu còn bổn phận của ta là tìm cho nó một chiếc xe đúng loại.
Ðức Phật đã nói về năm yếu tố tâm linh - Tính, Tấn, Niệm, Ðịnh, Tuệ - và so sánh chúng với một đoàn ngựa kéo một toa xe với một con ngựa đầu đàn và hai cặp theo sau. Con ngựa dẫn đầu là Chánh niệm và nó có thể đi nhanh theo sức của nó. Nó không cần phải cân xứng, chờ đợi ai. Chánh niệm là đầu đàn, là điều quan trọng nhất. Không có nó toa xe không thể đi tới. Nhưng hai cặp ngựa còn lại phải cân xứng nhau. Cặp thứ nhất là năng lực phải cân xứng với sự chú tâm - Tinh tấn và Ðịnh.
Sự chú tâm giúp ta ổn định. Nhưng nếu chỉ chú tâm mà không có năng lực, sẽ khiến ta hôn trầm. Làm ta trở nên trơ đá, không xúc cảm. Loại chú tâm này không ích lợi gì. Nó cần có năng lực để giữ thăng bằng. Nhưng có năng lực mà không có chú tâm thì cũng vô ích vì nó có thể khiến ta quá lăng xăng đến nỗi, lúc nào ta cũng phải làm cái gì đó.
Năng lực phải có định hướng. Không lợi ích gì nếu chỉ đổ nhiên liệu vào xe, nổ máy nhưng không biết phải đi đến đâu. Làm thế chỉ lãng phí nhiên liệu thôi phải không? Trên thế giới việc khủng hoảng năng lực cứ liên tục xảy ra, vì thế thật đáng xấu hổ, nếu ta góp tay vào việc làm lãng phí nhiên liệu, có phải không? Chúng ta cần phải biết rõ chiếc xe của ta cần đi về hướng nào. Nó cần có một hướng đi duy nhất thôi. Thẳng tiến đến sự lớn mạnh để đạt được sự tỉnh thức cao hơn, thậm sâu hơn.
Khi ta lớn lên cái nhìn của ta bao quát hơn. Khi đã đạt được sự trưởng thành về trí tuệ và tâm linh, ta có thể nhìn mọi thứ như một người đứng trên cao nhìn xuống, những gì xảy ra ở dưới đường không ảnh hưởng đến ta. Dầu có lụt lội, hạn hán, động đất trên quả đất của ta, hay có đĩa bay trên không trung, sự tỉnh thức của ta cũng không hề bị ảnh hưởng. Có cái nhìn của con chim ở trên tầng không , ta có thể nhìn mọi vật một cách tổng quát chứ không phải cá thể. Trong khi nếu ta ở phía dưới, tất cả những gì ta có thể thấy được là căn phòng này.
Cũng thế đối với cái nhìn bên trong. Cái nhìn hạn hẹp chỉ có thể thấy được cái gì ngay trước mắt nó: cái đau của thân, sự sợ hãi, lo lắng cho tương lai, tiếc thương cho quá khứ, yêu, ghét những người chung quanh ta. Ta chỉ có thể thấy những thứ như thế vì cái nhìn không được phát triển. Nhưng khi cái nhìn đã thay đổi, ta có thể thấy là đau khổ bao trùm mọi thứ, ta không còn phải lo âu, sợ hãi nữa vì ta biết rằng tương lai và quá khứ là một. Chỉ có giây phút hiện tại.
Năng lực cần phải nhằm đến một hướng, chăm chăm vào một việc mới mong có kết quả. Chúng ta phải hao hụt một phần lớn năng lực tinh thần trong Thiền định: năng lực duy nhất trong vũ trụ này. Tất cả mọi vật chất chỉ là kết quả của năng lực tinh thần. Khi ta đã tu Thiền một thời gian, sự tiêu tốn năng lực không còn làm ta mệt mỏi. Trái lại là khác. Ta cảm thấy như hấp thụ được nguồn năng lực mới qua Thiền định.
Ðể làm chủ các bản năng, đòi hỏi phải có năng lực. Sống theo bản năng là cuộc sống của loài thú. Con người hơn loài thú là có khả năng tư duy, vậy mà ta vẫn bắt gặp không ít những phản ứng có tính cách bản năng ở chính ta và người. Vì bản tính con người là phản ứng theo bản năng, ta cần phải có nhiều năng lực để chế ngự chúng.
Những gì có vẻ tự nhiên đối với ta - đến với ta một cách dễ dàng - là những cái ta cần chế ngự. Chỉ sống buông trôi theo bản năng sẽ đem lại đau khổ cho ta. Chuyển đổi từ một người tầm thường thành một người cao quý (ariya) là những bước đến với sự giải thoát. Cần phải có nhiều năng lực để chế ngự cách sống theo bản năng và phản ứng một cách tầm thường trần tục.
Tất cả những gì ta làm ta đều cần có năng lực. Sự quyết tâm là buớc khởi đầu, nhưng năng lực giúp ta tiến bước. Và ta chỉ có thể tiến bước không chùng chình nếu ta biết rõ hướng đi của mình. Người có thể làm được như thế là những người có thể đạt được nhiều thứ hơn người khác và luôn được người khác ngưỡng mộ. Không có gì to tát cả. Họ chỉ là những người giỏi điều khiển năng lực của mình.
6. Kiên nhẫn
Kế tiếp là kiên nhẫn. Nếu trong cuộc sống hàng ngày, ta không có lòng kiên nhẫn, ta sẽ luôn âu lo, khó thể an tâm. Ta sẽ cố làm những việc vô ích với hy vọng thúc đẩy công việc của ta mau chóng có kết quả.
Sự thiếu kiên nhẫn chứng tỏ có tâm chấp Ngã vì ta muốn mọi việc xảy ra theo như ta dự định. Hơn nữa ta lại muốn chúng xảy ra vào khoảng thời gian ta mong mỏi. Ta chỉ nghĩ đến những suy nghĩ, dự định của mình. Ta quên là còn có nhiều yếu tố khác , nhiều nhân duyên liên hệ khác. Quên rằng ta chỉ là một trong hằng tỷ người trên quả đất này, và quả đất này chỉ là một chấm nhỏ trong tinh cầu, và còn có hằng hà sa số các tinh cầu khác nữa.
Vì tư lợi của mình, ta bỏ quên những điều ấy. Ta chỉ muốn mọi việc xảy ra theo ý mình ngay lập tức. Khi mọi việc không xảy ra theo sự suy nghĩ, xếp đặt của mình, người thiếu kiên nhẫn thường trở nên giận dữ. Ðó là một vòng tròn oái ăm của sự thiếu kiên nhẫn và sân hận
Sự kiên nhẫn có một giá trị nội tâm. Ta nhận thức được rằng ta có thể dự tính nhưng kết quả không thể chắc chắn được. Ðôi khi đó lại là một việc tốt hay do nghiệp quả của ta. Ta cần phải biết chấp nhận những trở ngại này. Nếu ta không thể chấp nhận những gì xảy ra trong cuộc đời mình, thì ta càng thêm đau khổ.
Ai cũng từng kinh qua đau khổ, nhưng khi ta không biết chấp nhận, thì sự chống cự, phản kháng càng làm khổ đau tăng lên gấp bội. Như khi ta đấm tay vào một vật cứng , tay ta sẽ bị đau. Nhưng nếu ta tựa tay nhẹ nhàng vào cánh cửa hay bức tường ta vẫn không thấy đau. Phản kháng hay mong muốn đều là nguồn gốc của khổ đau.
Người kiên nhẫn có cái nhìn tổng thể hơn, họ có thể nhìn thấy sự vật thay đổi, chuyển và trôi theo dòng chảy. Có những sự việc ngày hôm nay ta thấy khó chấp nhận, thì ngày mai, hay tháng sau, năm sau, ta thấy chúng cũng bình thường.
Có những việc năm ngoái ta thấy quá cấp thiết, không thể thiếu trong cuộc sống, thì hôm nay chúng không có ý nghĩa gì nữa với ta. Suy nghĩ như thế giúp ta thản nhiên trước bất cứ việc gì có thể xảy ra. Nếu sự việc xảy ra không như ta dự tính, ta cũng có thể nhìn chúng như một phần của dòng đời lên xuống.
Những đức tính này chỉ có thể vun trồng trên mảnh đất mầu mỡ của nội tâm. Nội tâm ẩn náu bên dưới sự ươm trồng của trí tuệ và năng lực cần thiết để đi đúng hướng , trong khi kiên nhẫn và xả ly cần có để đối trị với ngã mạn , vì tất cả đều vô thường, khổ và vô ngã.
"Nội quán", hay "Minh sát", trong ngôn ngữ Phật giáo có sự là sự quán chiếu thậm sâu về ba đặc tính trên: Vô thường, Khổ và Vô ngã. Chúng không ngừng xảy ra. Chỉ có sự chú tâm của ta đối với chúng là có thể ngừng lại. Ta thường tìm cách trốn tránh chúng. Ta không thích vô thường, khổ và vô ngã, nên ta phản kháng lại chúng.
Ta từ chối sự hiện hữu của chúng , và luôn nghĩ ra đủ mọi cách để trốn tránh chúng. Nhưng cách trốn chạy hữu hiệu nhất là chấp nhận, thấu hiểu và thâm nhập chúng vào đời sống của ta, đó là cách giải thoát duy nhất, vĩnh cửu. Tất cả những cách khác đều chỉ là sự trốn chạy tạm thời, không đi đến đâu, ngoài việc dẫn ta trở lại điểm bắt đầu.
Trước hết ta cần phải có kiên nhẫn với chính mình. Nếu không, ta không thể có kiên nhẫn với ai cả. Nếu không có kiên nhẫn với chính mình, tức là ta không biết tự quý trọng mình. Ta phóng đại về khả năng của mình, sự quan trọng của mình, rồi khi sự việc không xảy ra như ta dự tưởng thì ta tức giận. Thí dụ như ta nghĩ là ta phải Giác Ngộ lâu rồi, hay ta có thể tọa thiền trong hai tiếng đồng hồ không nhúc nhích, hay có thể Thiền đến độ không cần ngủ nghỉ. Ðủ thứ "phải". Sự mong mỏi đó ta cũng đem áp dụng cho mọi người khác, và ta trở nên thiếu kiên nhẫn với sự thiếu sót của họ.
Tuy nhiên cũng không nên đồng hoá tính kiên nhẫn với sự dễ dãi. Một người rất kiên nhẫn có đức tính đáng yêu của sự chịu đựng. Nhưng nếu không có đủ trí tuệ và nghị lực nội tâm, lòng kiên nhẫn đó dễ dàng xuống cấp trở thành sự dễ dãi, buông xuôi khi nghĩ rằng có làm gì cũng vô ích , là một điều không đúng sự thật. Sao cho rằng vô ích, khi ta khéo léo, đức hạnh.
Vấn đề là ta cần phải có trí tuệ để biến kiên nhẫn thành một đức tính. Dầu cho biết chấp nhận thực tế cuộc đời không như ta dự tính, ta vẫn phải có quyết tâm và năng lực để chuyển hướng về những điều tốt đẹp hơn.
Trong khi một kẻ buông xuôi có thể nhìn y phục của mình và nói: "Dơ rồi. Nhưng ta có thể làm được gì chứ? Tất cả y phục rồi cũng sẽ bị dơ". Ðó là một ví dụ cực đoan. Giống như một người nhìn quanh phòng rồi nói: "Phòng dơ quá. Mà phòng nào rồi cũng dơ". Hay có người quan sát nhà mình rồi nói:
"Nước sơn đã bạc màu rồi. Mà có sơn lại rồi cũng bạc màu". Ðó là thái độ để mọi việc xảy ra mà không có quyết tâm hay năng lực cần thiết để chuyển đổi mọi việc cho tốt hơn, ở hình thức hay nội tâm. Nếu ta tự xét thấy có điểm yếu kém rồi ta nói: "Ôi, còn làm gì được nữa? Ai mà lại không tham lam, sân hận?" và rồi để mọi việc buông xuôi. Như thế chưa đủ tốt.
Mặt khác, nếu ta nhận thấy tánh tham sân trong con người mình, ta trở nên thiếu kiên nhẫn, điều này cũng chẳng ích lợi chi. Tất cả mọi thứ đều cần thời gian. Từ vô thủy, ta đã lập đi lập lại những tánh xấu này. Ta cần phải có thời gian để thay đổi. Kiên nhẫn rất cần thiết, nhưng buông xuôi thì không.
7. Chân thật
Tiếp theo là chân thật và đức tính này có nhiều khiá cạnh. Ðầu tiên và tiên quyết là ta phải nói sự thật. Ðó là giới luật thứ tư - không nói dối. Nhưng còn hơn thế nữa. Ta cần phải tự khám phá mình với sự chân thật rốt ráo ở nội tâm. Ðó là một việc khó thực hiện. Ta cần có trí tuệ để nhận biết lầm lỗi của mình, không phải của người. Tìm lỗi của người không khó. Lỗi của người khá hiển nhiên. Nhưng để tìm ra lỗi của mình, đó là điều khó làm, ta cần sự thật thậm sâu và một nội tâm chân thật.
Ðiều đó giống như tự mổ xẻ bên trong, tự chất vấn mình. Khi câu hỏi đầu tiên được trả lời, ta lại phải đặt câu hỏi về câu trả lời đó "Tại sao tôi lại hành động như thế, tại sao tôi lại có những cảm thọ đó? Tại sao tôi phản ứng như thế?" Cuối cùng các câu trả lời đều đưa về một "cái Ngã", nếu ta đã tự phân tích mình đầy đủ.
Các phản ứng dễ dãi như "ôi, đó chỉ là cái tôi, tôi không thể làm gì khác hơn" hay "đó là nghiệp của tôi rồi", không ích lợi gì. Cả hai thái độ đều vô hiệu quả, vì nếu ta đã thật sự tự phân tích mình rốt ráo, và đã nhận ra đó là do ngã mà ra, thì ta phải tìm cách tháo gỡ sự bám víu vào cái ngã.
Rất khó nhìn ta như người khác nhìn ta. Ta phải đặt một tấm gương trước mặt, không phải để soi hình dáng bề ngoài, mà là để theo dõi sự hình thành của tâm sinh lý của ta. Tấm gương đó gọi là chánh nghiệp. Ðôi khi cách người khác đối xử với ta cũng tạo nên một tấm gương, nhưng không hẳn là một tấm gương trung thực vì có cái tôi của họ nằm trong đó. Do đó, công việc chính của ta là phải tự chất vấn mình thôi.
Sự thực có nhiều mặt khác. Biết được sự thật tức là biết điều bốn sự thật cao quý (Tứ Diệu Ðế) và đó là Pháp chân thật. Nhận biết được bốn sự thật cao quý đó có nghĩa là ta đã quan sát chúng bằng cái nhìn nội tâm: sự thật về khổ (khổ đế), sự thật về nguồn gốc của khổ (tập đế) là tham sân ; sự thật về chấm dứt khổ đau (diệt đế) nghĩa là sự giải thoát ; và sự thật về phương tiện chấm dứt khổ đau (đạo đế) đó là Bát Chánh Ðạo. Tóm lại sự thật chỉ có nghĩa như thế.
Tất cả các chân lý cuối cùng phải dẫn ta đến sự tự do, giải thoát. Con người ta có thể đi tìm chân lý bằng nhiều cách khác nhau, qua nhiều lý thuyết học. Có nhiều lý thuyết đáng kinh sợ vì nó dạy người ta đàn áp tầng lớp người này và tôn vinh tầng lớp khác. Nhóm khác lại nói về sự đàn áp và chủ nghĩa tối thượng. Tất cả là do tâm con người tạo ra. Tâm u mê sẽ đặt lý thuyết của mình dựa trên ảo tưởng về ngã chấp, do đó chúng không thể nào đem lại sự thỏa mãn hoàn toàn.
Ði tìm chân lý là một điều nên làm, tuổi trẻ nên đeo đuổi theo chân lý và người già không nên ngừng nghỉ. Ðáng buồn thay, sự tìm kiếm chân lý có bị gián đoạn. Con người bị ràng buộc vào quá nhiều bổn phận hằng ngày vì mục đích sinh tồn, đến nỗi sự tìm kiếm chân lý có vẻ vượt quá khả năng của họ. Họ không còn đủ năng lực hay ý chí. Thật đáng tiếc, khi người trẻ không có đủ trí tuệ để khám phá ra sự thật đằng sau mọi việc, còn người già thì không còn đủ năng lực. Như ông Bernard Shaw đã nói: "Tuổi trẻ bị lãng phí bởi những trẻ tuổi".
Ta không nên bao giờ bỏ cuộc trong việc tìm kiếm chân lý, dù chỉ một phút. Nếu ta tiếp tục cuộc kiếm tìm, thì chẳng lâu sau ta sẽ khám phá ra rằng chân lý không thể là một sản phẩm của loài người. Chân lý phải có tính cách toàn cầu. Phải được áp dụng cho tất cả mọi người, không phải cho một loại người nào, một tầng lớp xã hội nào, một giới tính nào hay một quốc gia, tôn giáo nào. Chân lý phải dẫn đến sự giải thoát khổ đau cho con người tuyệt đối, mãi mãi - không chỉ tạm thời cho một nhóm người nào đó thôi.
Chân lý phải là sự thật tuyệt đối,chứ không phải tương đối. Chân lý tuyệt đối nằm trên những khổ đau và kiếm tìm của con người. Nó nằm trong những cuộc kiếm tìm của tâm linh và chân lý chỉ có thể tìm được trên các con đường tâm linh. Chúng ta sống trong một thế giới tương đối, hai chiều. Nó có ngày mai và hôm qua, tốt xấu, anh và tôi, họ và chúng ta, tôi muốn và tôi không muốn, tiềm ẩn trong đó.
Trong đó có cá tính "của tôi" và cá nhân "của tôi" mà "tôi" muốn khẳng định và "tôi" muốn bành trướng. Ðiều đó chỉ có tính cách tương đối và không phải là chân lý tuyệt đối, có thể làm thỏa mãn mọi người. Ai đó phải chịu thiệt thòi trong thế giới đó. Chân lý tuyệt đối bỏ qua tất cả những thứ đó. Hiểu được rằng không có cá tính và cá nhân, ta sẽ nhận ra rằng những gì được coi là "tôi", "của tôi" là một sai lầm và những gì là "anh", "của anh" cũng là một hiểu lầm đáng tiếc.
Không có tha nhân để ta lo ngại sợ hãi. Tất cả chỉ là một dòng chảy và thể chất chiủ là lớp vỏ bên ngoài. Chân lý tuyệt đối không hạn chế cho một tôn giáo nào. Nó có tính cách toàn cầu và có thể kinh nghiệm qua sự thực hành của con người bát chánh đạo. Sự hoàn thiện các đức tính này tạo nên sức mạnh bên trong ta, và để phá vỡ sự thật tương đối, tìm ra chân lý tuyệt đối, ta cần phải có rất nhiều sức mạnh.
8. Quyết tâm
Hạt giống lành chúng ta cần ươm trồng kế tiếp là sự quyết tâm, không có quyết tâm ta chẳng thể thành tựu được gì. Ngay cả việc mỗi sáng thức dậy cũng cần có quyết tâm. Tuy nhiên, có việc đòi hỏi nhiều quyết tâm hơn các việc khác, thí dụ như là ngồi Thiền. Lúc bắt đầu, đối với đa số, ngồi thiền không có gì hứng thú, lại khó chịu nữa. Không hấp dẫn và cũng không mang lại kết quả tức thời.
Chúng ta quen sống trong một thế giới của kết quả tức thời. Nhấn một cái nút, tức thì các số tiền mua sắm được tổng cộng ngay. Nhấn một cái nút khác, máy quạt chạy, tạo ra không khí mát mẻ. Nhấn một nút nữa, đèn được bật tối, sáng. Tất cả đều ngay lập tức. Xã hội chúng ta hơn bao giờ hết, đòi hỏi các kết quả ngay tức thời. Ðó là lý do tại sao các viên thuốc giảm đau được người ta ưa thích hơn các loại thuốc đông y thường cần thời gian lâu hơn mới có công hiệu.
Thiền định tuy chậm nhưng là một loại thuốc đảm bảo. Muốn tu Thiền, ta cần phải có quyết tâm, một đức tính kiên cường. Tâm yếu đuối không thể có quyết tâm. Nhưng tâm mạnh mẽ, định tĩnh thì traí lại. Mỗi khi ngồi xuống tọa Thiền, ta cần phải quyết tâm ngồi một chỗ không nhúc nhích, để giữ tâm ở yên một chỗ, để chú tâm vào việc ta đang làm.
Trong đời sống hàng ngày, ta cũng cần có quyết tâm. Nếu ta chỉ ngồi chờ cơ hội, thì cơ hội khó xảy đến cho ta. Ta cần phải làm một cái gì đó. Phải có quyết tâm bạn mới đến Thiền viện để học Thiền, vì ở nhà thì thoải mái hơn rồi.
Tất cả chúng ta đều có những nghiệp thiện trong ta. Ai cũng biết điều tốt xấu. Nếu không, thế giới này càng hỗn loạn hơn thế nữa. Tất cả chúng ta đều có tính quyết tâm, nhưng ta không có trí tuệ thậm sâu để biết rằng những đức tính này là những người bạn tốt của mình. Ta phải cố gắng gần gũi chúng, ấp ủ, phát triển chúng lớn mạnh trong ta. Chúng ta là những nguyên liệu cần thiết cho một đời sống hạnh phúc, bình an và không thể thiếu trong sự phát triển tâm linh.
Ðó là tất cả những gì cuộc đời có thể mang đến cho ta: sự phát triển tâm linh. Ngoài ra, chỉ có những dục lạc giả tạm nguy hiểm vì chúng lôi kéo ta vào sự buông xuôi. Khi ta đã hiểu rõ ràng như thế, thì quyết tâm sẽ phát khởi để ta đem sự phát triển tâm linh làm yếu chỉ trong cuộc sống. Ðể làm được điều đó không cần phải vào tu viện hay ẩn náu ở chốn hang sâu.
Ta có thể tiến bộ hay tụt hậu ở bất cứ nơi nào. Tất cả những gì xảy ra cho ta đều có thể được coi như giúp ta tu học, dầu đó là một căn bệnh, chết chóc, sự ác tâm của người, mất tài sản, thân thọ khổ, hay mất tình yêu, danh vọng. Sự bám víu vào người khác, lo lắng cho họ cũng cho ta một bài học. Không nên coi thường gì cả, mà hãy xử dụng mọi thứ để tu học, phát triển.
Quyết tâm sẽ phát sinh khi ta nhận thức rằng cuộc đời này không có gì giá trị để cho ta, trừ sự phát triển tâm linh và giải thoát cuối cùng. Không cần phải thay đổi cách sống của mình, nhưng cần phải thay đổi thái độ, hành động, nhận thức về những gì xảy ra quanh ta và trong ta. Sự quyết tâm đó mang đến cho ta hạnh phúc vì trong quyết tâm có niềm vui được đi trên con đường đạo. Như thế quyết tâm tự nạp năng lực cho mình.
Quyết tâm bình thường đến rồi đi, cần phải có nhiều tranh đấu để làm sống lại một quyết tâm. Nhưng khi sự quyết tâm là quyết tâm đi trên con đường tâm linh, nó không cần phải được tiếp tục hồi sức. Nó trường tồn vì nó mang lại niềm vui cho người có quyết tâm.
9-10. Tâm Từ và Tâm Xả
Hai đức tính cuối cùng: tâm Từ và tâm Xả, bạn đã được nghe nói đến nhiều. Ðã được nhắc đến ở những Chương trước. Xả là tình cảm đáng được trân trọng nhất. Nó giúp đoạn diệt ảo tưởng về Ngã. Nếu ta không thực biết rằng chính Ngã chấp đã tạo ra những đau khổ trong cuộc đời, thì ta không thể thực sự phát tâm xả. Ta có thể đè nén sự bực bội, lăng xăng, nhưng ta không thể có tâm an bình. Căn bản của xả là trí tuệ và nội tâm.
Mười nghiệp thiện này cần được phát triển đời này qua đời khác, liên tục cho đến khi chúng đủ sức mạnh để đưa ta đến con đường cao quí, con đường giúp ta có cái nhìn xuyên suốt về Tứ Diệu Ðế ngay tại trọng tâm của bánh xe Phật pháp.
0 comments:
Post a Comment