Home » » SỰ KỲ DIỆU CỦA HUYỆT NGŨ HÀNH - Phần 3/3

SỰ KỲ DIỆU CỦA HUYỆT NGŨ HÀNH - Phần 3/3

Written By Giai phap ma nguon mo on Monday, September 5, 2011 | 10:07 PM

SỰ KỲ DIỆU CỦA HUYỆT NGŨ HÀNH - Phần 3/3

Tác giả: Thầy Đỗ Đức Ngọc
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhfKYrawAuUZumAbfW6MUgtceFeOYPo-UX0h7-peXJFsUwhCgsJ0mZGuZdegdnKacziWUHSJAG4xNFqtLwF-2NXS-xbtNaW1yN-sWPiQzWXfQb6JgzhPkQKZQLSeyP2dCsNrX7nLrF-noQ/
(Khí Công Y Đạo Việt Nam)
http://thunderreiki.com/image/obj2049geo1600pg13p37.gif 
Sự Kỳ Diệu của Huyệt Ngũ Hành - Phần 1  Phần 2   Phần 3
Cách chữa :
Cần phải uống thuốc bổ máu, cần thêm máu, và muốn duy trì cho khỏi mất máu, cần phải biết cách hít thở tăng cường oxy cho cơ thể và làm tăng áp huyết. Tập động công bài Nạp Khi Trung Tiêu để kích thích chức năng co bóp của tỳ vị gan cùng hoạt động đồng bộ. Bài đứng kéo gối lên ngực :
10-Tìm được bệnh của bao tử thực hay hư :
http://ungthuvn.com/wp-content/uploads/2010/11/ung-thu-bao-tu.jpg
a-Chức năng bao tử (dạ dày) thực:
Cũng giống như trên, nhưng đổi lại áp huyết cao bên tay trái 145/95mmHg mạch 80, áp huyết thấp bên tay phải 135/88mmHg mạch 80. Thực ra cũng chưa chẩn đoán được bệnh gì, nếu bệnh nhân không cảm thấy có bệnh mà chỉ muốn khám tổng quát cho biết,
và nếu không bấm huyệt ngũ hành để tìm bệnh ở tạng phủ như Cưu Vĩ, Cự Khuyết, Thượng Quản, Trung Quản, Kiến Lý, Hạ Quản, Thủy Phân, Thần Khuyết, Âm Giao, Khí Hải. Quan Nguyên…trên Mạch Nhâm trước bụng, thì không thể biết bệnh nhân đang có bệnh gì trong người.. .
Trường hợp này, bấm huyệt nào cũng xuống trừ huyệt Trung Quản áp huyết lại tăng cao hơn số đo tự nhìên lúc ban đầu như 170/95mmHg mạch 80, chứng tỏ bệnh cao áp huyết do bao tử bình thường không hàn không nhiệt..
Cách chữa :
Bấm huyệt Trung Quản thuộc chức năng bao tử mà đau, thuộc thực chứng, theo lý luận ngũ hành tạng phủ của đông y, phải tả con của thổ là thổ sinh kim, bệnh dương lấy âm chữa, bệnh bên dưới lấy bên trên chữa, tả huyệt Trung Phủ của Kinh Phế giao hội thông với Kinh Vị làn hạ áp huyết, hạ khí phổi, tức là tả con, làm giảm khí của mẹ là bao tử, huyệt Trung Quản hết đau, áp huyết sẽ xuống.
alt
- Bao tử thực nhiệt :
Trường hợp bao tử thực nhiệt thì mạch cao hơn 90, thí dụ như tay trái vẫn đo được 145/95mmHg nhưng mạch 95, thì lúc đó vẫn day tả huyệt Trung Phủ nhưng làm hạ nhiệt lại theo luật 6, 9. Luật day 6 lần là dùng lão âm sẽ sinh dương, luật day 9 lần là dùng lão dương sẽ sinh âm. Có nghĩa là dùng âm huyết sinh dương khí, hoặc dùng dương khí sinh âm huyết, đây là chủ động sinh hóa chuyển hóa, nên theo lý thuyết khí công, chỗ nào có máu chạy thì chỗ đó ấm nóng, chỗ nào có khí đến thì chỗ đó mát.
- Bao tử thực hàn :
Trường hợp bao tử thực hàn thì mạch thấp hơn 65, thí dụ như tay trái vẫn đo được 145/95mmHg nhưng mạch 63, lúc đó vẫn day huyệt Trung Phủ, nhưng làm tăng nhiệt day 9 lần. Muốn nhớ điều này ta cứ theo cách nghĩ đơn giản day nhiều lần (9 lần) sẽ nóng hơn day ít lần (6 lần).
b-Chức năng bao tử hư:
Bao tử ở bên tay trái, nếu đo áp huyết tay trái được 105/78mmHg mạch 75, tay phải 140/90mmHg mạch 75, tây y vẫn thấy không có bệnh cao áp huyết. Nhưng đông y khí công nhìn ngay ra bệnh tại chức năng bao tử hư yếu nên áp huyết thấp, nếu kèm theo huyệt Trung Quản khi bấm vào trong khi đo máy xuống đến dưới 100/70mmHg mạch vẫn 75, có dấu hiệu biếng ăn, ăn không tiêu, bụng sôi…
Cách chữa :
Theo ngũ hành, con hư bổ mẹ, dương hư lấy âm chữa, mẹ của bao tử hành thổ là tâm hỏa không đủ nhiệt lượng cung cấp cho bao tử sinh hóa chuyển hóa nên thức ăn không tiêu.
alt alt
Bổ tâm hỏa bằng cách không bấm day huyệt mà vuốt huyệt theo hình vẽ để thông khí Tâm Bào, và Thông Kinh Tâm làm tăng áp huyết, tăng nhiệt lượng cung cấp cho bao tửlàm nhiệm vụ sinh hóa chuyển hóa.
Trường hợp bao tử hư nhiệt
Áp huyết giống nhau 105/78mmHg nhưng mạch nhanh hơn 90 thường xuyên, trán lúc nào cũng nóng hâm hấp không có mồ hôi, gọi là âm hư sinh nội nhiệt, cảm thấy người nóng nhưng lại không thích uống nước lạnh mát sẽ ăn không tiêu đầy bụng khó chịu. Muốn mất nhiệt, vuốt 6 lần. Đo lại áp huyết sẽ tăng, mạch sẽ giảm.
Trường hợp bao tử hư hàn
Áp huyết giống nhau 105/78mmHg nhưng mạch dưới 65 thường xuyên, trán lạnh, bụng lạnh. Muốn điều chỉnh mất hàn tăng nhiệt, vuốt hai đoạn kinh này 9 lần, đo lại áp huyết tăng mạch tăng.
Nếu con số tăng chưa đủ có thể lập lại.
Nếu dùng động công để chữa cơ thể sẽ tự điều chỉnh áp huyết đều hai tay bcả 3 số, tăng áp huyết tăng nhiệt bằng bài tập Nạp Khí Trung Tiêu. Muốn làm hạ áp huyết đều hai tay cả 3 số, tập bài Kéo Ép Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng.
11-Tìm được bệnh loét bao tử , bao tử xuất huyết :
http://ungthuvn.com/wp-content/uploads/2010/11/ung-thu-bao-tu.jpg
Theo nguyên tắc ngũ hành tạng phủ, loét bao tử do trong bao tử có nhiều nhiệt, do hỏa nhiệt của tâm truyền sang, bệnh truyền kinh, hỏa nhiệt dư do mẹ của hỏa là gan nhiệt. Như vậy cả 3 hành mộc, hỏa, thổ đều nhiệt, nhiệt ở thổ muốn thoát được thì con là đại trường đừng để bị táo bón, nhiệt sẽ giữ lại trong cơ bao tử.
Khi đo áp huyết kiểm chứng bằng huyệt chức năng của gan ở Cự Khuyết, của tâm ở huyệt Cưu Vĩ, của vị ở huyệt Trung Quản, đều có số đo áp huyết cao và mạch cao như 180-200/90-100mmHg mạch 90-110, lưỡi đỏ, rêu dầy trắng khô, có dấu hiệu lưỡi nứt, nếu bị táo bón, đo áp huyết trên huyệt chức năng đường ruột ở Thiên Xu, áp huyết cũng cao nhưng mạch không cao, trường hợp mạch cao, thì đi cầu ra máu tươi, ngược lại đi cầu ra máu nâu là do xuất huyết bao tử.
Cách chữa :
Khi nhiều hành của tạng phủ bị bệnh thực, cần phải tả thực nhiệt vừa làm hạ áp huyết hạ mạch, trong trường hợp này không thể dùng huyệt cho 3-4 đường kinh sẽ phạm ngũ hành gây biến chứng, chỉ có tập khí công bài Éo Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng, hơi thở phải thổi ra bằng miệng đến 100-200 lần cho đến khi trán xuất mồ hôi, nêú để nhiệt kế đo trên huyệt Trung Quản ban đầu là 38 độ C, trên trán là 38.5 độ C, sau khi đo lại nhiệt độ ở đầu xuống 36.5 độ C, ở bụng 36-37 độ, áp huyết đo bình thường ở hai tay xuống 135/85mmHg mạch 75-80 là chúng ta đã biết cách điều chỉnh chức năng hoạt động của cơ thể trở lại bình thường.
Nhưng chữa bệnh là biết điều chỉnh theo Tinh-Khí-Thần hòa hợp.
Tinh là điều chỉnh ăn uống, không được ăn no, không được ăn nhiều chất cay, nóng, bia rượu, các loại mắm, cà phê, thuốc lá, cà rốt, khô mực, caqm thảo trái cây nhiệt đới như nhãn, xoài, sầu riêng, măng cụt, mít…là những chất làm tăng áo huyết và tăng nhiệt trong gan và bao tử.
Khí là phải tập cho khí nhiệt trong cơ thể thoát ra, các gân cơ trong cơ thể mềm lại là tăng âm, khi cơ thể căng cứng là tăng dương, nên phải tập thể dục thể thao, bơi lội, tắm hơi nóng cho xuất mồ hôi, tập bài Vổ Tay 4 Nhịp, Bài Kéo Êp Gối Thở Ra Làm Mềm Bụng, tập thở thiền ở Đan Điền Tinh để tăng thủy.
12-Tìm được bệnh của Tỳ thực hay hư :
Đo áp huyết tay phải bình thường dưới 140/90mmHg mạch 75, nhưng bên trái có hai trường hợp xảy ra một là thực áp huyết cao, hai là hư áp huyết thấp.
Có hai loại: thực hàn như 170/95mmHg mạch 65 và thực nhiệt 170/95mmHg mạch 95, khi bệnh có sốt nặng như viêm tụy tạng mạah trên 120
Có hai loại : hư hàn như 105/70mmHg mạch 65 và hư nhiệt 105/70mmHg mạch 95.
Chức năng bẩm sinh tỷ hư yếu, cơ thể gầy yếu, không ăn được nhiều, chán ăn kém ăn, thiếu máu suy nhược, chân tay lạnh, hay tiêu chảy, áp huyết sẽ ở khoảng 100/68mmHg mạch 60 thuộc bệnh mãn tính là dấu hiệu của thiếu máu để lâu không chữa đúng trở thành ung thư máu mãn tính, nhưng khi cấp tính mạch tăng cao thành sốt trong máu nhiễm trùng 100/68mmHg mạch 120 là ung thư máu cấp tính.
Trước khi đến giai đoạn ung thư máu đã có nhiều bệnh nan y trong người như đi lảo đảo, kém trí nhớ, rụng tóc, đau nhức tay và cánh tay như kim châm, năng nhấc tay hay cử động đau, đau xương khớp, tròng mắt trắng, thị lực kém, cơ thể bạc nhược, lạnh bụng, lạnh chân tay, tiêu chảy, trong người cảm thấy nóng khô khát nhưng không dám uống nước lại bị rét lạnh. Nếu chữa theo tây y từng phần thì phsải uống rất nhiều thuốc chuyên môn của nhiều bác sỉ chuyên khoa làm cho chức năng cơ thể rối loạn, nếu chữa theo đông y, không được điều chỉnh qúa 3 hành, thầy gỉỏi bậc thuợng công phải tìm ưu tiên nguên nhân trị tận gốc, dùng một hành hoặc hay hàn, dùng càng ít huyệt càng chính xác, nhưng phải lý luận ngũ hành tìm cho đúng huyệt tạo ra vị thuốc chũ lực, và biết hướng dẫn bệnh nhân biết điều chỉnh tinh-khí-thần hòa hợp.
Đối với khí công y đạo, việc chính là bổ máu duỡng tỳ, cho ăn ngủ được ngon, thuốc có công dụng nhất là Sirop bổ máu Đương Quy Tửu, tập thở Đan Điền Thần, dưỡng thần, tăng nhiệt, tăng tính hấp thụ và chuyển hóa, Đo lại áp huyết thấy áp huyết tăng dần mạch trở lại bình thường, bắt đấu tập phần động công Bài Nạp Khí Trung Tiêu tăng khí tăng nhiệt cho tỳ vị, bài Vỗ Tay 4 Nhịp giúp dung tích phổi tăng để cơ thể đủ oxy để duy trì công thức máu.
Kiêng ăn chất hàn lạnh chua làm mất máu, Ăn chất cay nóng ngọt làm tăng áp huyết, Tập dưỡng thần, tinh thần an vui bằng bài hát one, two, three…giúp tinh thần vừa vui vẻ, vừa luyện khí, luỳện hơi thở được dài hơi, tăng thêm oxy cho máu, giúp thận khí mạnh.
13-Tìm được áp huyết cao do chức năng thận hư :
http://www.bacsigiadinh.org/Images/News/2948.jpgMột người già đang dùng thuốc trị áp huyết 20-30 năm, áp huyết không xuống trong tiêu chuẩn được, nhưng ổn địng ở cả hai tay ở mức 140-145/85-95mmHg mạch 75.
Nhưng khi đo áp huyết được kiểm tra trên từng huyệt chức năng, từ Cưu Vĩ, Cự Khuyết, Thượng Quản, Trung Quản, Kiến Lý, Hạ Quản, đều xuống đến 120/70mmHg mạch 75, nhưng bấm đến huyệt chức năng thận ở Khí Hải áp huyết lại tăng lên cao hơn lúc ban đầu, thí dụ 160/95mmHg mạch 75. Như vậi bệnh nhân nàu chữa bệnh cao áp huyết là chữa ngọn trong nhiều năm, mà không chữa đúng gốc bệnh, và do phản ứng phụ của thuốc đã làn hại thận.
 Như vậy bệnh cao áp huyết do nhiều nguyên nhân chứ không riêng bệnh thuộc tim mạch, mà bệnh tim mạch là hậu qủa của nguyên nhân khác phải tìm theo quy luật ngũ hành tạng phủ. Do đó ngũ hành là một định đề quy ước để lý luận tìm nguên nhân và hậu qủa, còn cách chữa lại phải theo quy luật hư thì bổ, thực thì tả. Nhưng bổ hay tả ở Kinh nào, chọn huyệt nào là vị thuốc đúng nhất vừa có chức năng chữa ngừa biến chứng trước, chữa ngọn sau, và chữa vào gốc bệnh để bệnh không tái phát hay gây biền chứng.
Thí dụ như bệnh tìm thấy ở gan thực nhiệt, chữa ngọn là chữa ở gan, nhưng gan đã bệnh, và đã âm thần truyền bệnh làm hại đến tim sắp bị biến chứng đột qụy nhưng thầy thuốc chưa tìm thấy dấu hiệu, cứ chữa ngọn vào gan trước, chữa gan xong biến chứng ở tim phát ra làm đột qụy, thì thầy nói tôiđã chữa gan cho ông rồi, còn ông bị bệnh tim bất ngờ là chuyện khác, đó là cách chữa bá đạo, thầy trung công vừa chữa ngừa biến chứng ở tim, không cho tim phát triển bệnh, vừa ngưng ngay sự phát triển bệnh ở gan, thầy thượng công phải tìm thêm cách chữa vào gốc bệnh ở thận, dẫn thận khí thận thủy không truyền bệnh sang gan, còn gan đã truyền nhiệt mộc sinh ỏa cho tâm dư hỏa, thỉ thầy thượng công dùng thủy để cắt hỏa của tâm, để 3 hành thủy, mộc, hỏa trở lại quân bình không còn hành nào xung khắc hành nào.
14-Tìm được bệnh sạn thận:
http://www.bacsigiadinh.org/Images/News/2948.jpgĐo áp huyết có thể ở hai tay bình thường, nhưng khi kiểm tra áp huyết trên huyệt chức năng của tân, ca, tỳ, phế, thận, áp huyết đều xuống đến 120/85mmHg mạch 75. Nhưng khi bệnh nhân nằm ngửa, vẫn đo áp huyết ở tay, nhưng thầy thuốc dùng ngón tay giữa luồn vào lưng bệnh nhân bấm vao huyệt Mệnh Môn, đối xứng với rốn phía (gọi nôm na là rốn sau), bìnhg thường nằm thở theo dõi khí ở huyệt này thì áo huyết xuống 120 hay thấp hơn, nhưng đặc biệt người có bệnh sạn thận thì áp huyết mặc dù đo ở tay, nhưng áp huyết tăng lên hơn 140, đó là dấu hiệu sạn thận.
Đã có lần tôi chữa một bệnh nhân bị bệnh cao áp huyết trên 170//95mmHg mạch 100, áp huyết cqo do bao tử nhiệt, người hơi sốt, sau khi tập cho bệnh nhân thở trên huyệt lam áp huyết hạ xuống 120-130/75-85mmHg mạch 75, thở đến huyệt Mệnh Mông áp huyết lại tăng, đo lại nhiều lần áp huyết cũng không xuống. Tôi cho bệnh nhân biết là anh đã bị sạn thận, làm thận khí tắc không cắt tâm hỏa thực được, phải trị sạn thận bằng trái dứa với phèn chua, hay dùng Thạch Lâm Thông. Bệnh nhân ngạc nhiên không tin, đi thử soi thận, bác sĩ chuyên khoa cho biết thận có sạn to cần phải mổ, anh không mổ mà theo phương pháp lấy sạn ra bằng thuốc đông y.
Xin xem các bài viết liên quan ở link này :
15-Tìm ra bệnh ở phổi hư, thực, hàn, nhit :
http://www.bacsigiadinh.org/Images/News/2948.jpgCũng như cách đo áp huyết bình thưòng, chỉ đo áp huyết thì không khám phá ra được bệnh ở phổi, khi bị cảm cúm sốt đo áp huyết mới biết có dấu hiệu áp huyết cao. Nhưng lúc nào cũng có hai trạng thái hư thực, rồi chia làm 4 loại bệnh, hư hàn, hư nhiệt, thực hàn, thực nhiệt.
Trạng thái phế hư, phế khí sẽ yếu, thở gấp, đo áp huyết bấm mạch Trung Phủ từng bên trái hay phải áp huyết sẽ thấp 105/80mmHg mạch 85 cao hơn bình thường. Số đo 2 bên giống nhau là hai bên phổi đều bị bệnh, một bên bình thường, một bên thấp thì chỉ bên thấp phổi bên đó bới bị hư yếu.
Trạng thái phế hư nhiệt sẽ là 105/80mmHg mạch 120, bệnh nhẹ là suyễn nhiệt. Trạng thzái phế hư hàn là 105/80mmHg mạch 60
Trạng thái phế thực, khí mạnh, thở mạnh. đo áp huyết ở huyệt Trung Phủ sẽ cao như 170/95mmHg mạch 85 cao hơn bình thường. Số đo hai bên giống nhau là hai phổi đều bị bệnh.
Trạng phế thực nhiệt sẽ là 170/95mmHg mạch 110, mạch cqo hơn nữa là sốt nhiệt trên 120 thuộc cấp tính. Trạng thái thực hàn sẽ có áp huyết lá 170/95mmHg mạch 60.
Nhưng nguyên nhân tại sao phế bị bệnh, phải bấm kiển tra huyệt chức năng ngũ hành, có thể do tâm hỏa thực, tâm hỏa hư, có thể do tỳ vị thực hỏa, hư hỏa, có thể do chúc năng thận hư… là nhờ đo kiểm tra ở những huyệt này là bệnh gây ra ở tạng phủ nào.
Cách chữa :
Chữa vào phổi là chữa ngọn, ngừa biến chứng nếu phế thực phải tả con ở Kinh Bàng Quang, tả Chí Âm, nếu phế hư phải bổ Túc Tam Lý kinh Vị. Tả thì day huyệt nghịch chiều kim đồng hồ, bổ day huyệt thuận chiều kim đồng hồ, muốn lám cho mát day 6 lần, muốn lám cho ấm, day 9 lần…

alt alt
16-Ung thư phổi :
Nguyên nhân của tất cả các loại ung thư đều do thiếu máu do Tinh khí thần không hòa hợp như ăn uống sai lầm, thiếu ăn làm mất máu, không sinh ra máu. Về Khí do thiếu hơi thở, không tập luyện, hay làm mất khi suy nhược do làm việc cực khổ qúa sức lực. Về Thần do không vui, lo lắng, buồn chán thở dài.
Cách chữa :
Đầu tiên bổ Tinh, điều chỉnh ăn uống thêm những chất bổ máu, uống Sirop bổ máu Đương Quy Tửu cho đến khi áp huyết lên đến 130/85mmHg mạch 75-80.
Bổ Khí : Tập Vỗ Tay 4 Nhịp cho thông khí phổi , Nạp Khí Trung Tiêu bổ tỳ vị để có khí nuôi kim, , Bài Hát Kéo Gối Lên Ngực làm tăng nhiệt lượng, tăng áp huyết. Thở Thông Tinh-Khí-Thần, thở Đan Điền Thần, Đan Điền Tinh để sinh hóa chuyển hóa, giúp tiêu hóa tốt
Vuốt huyệt Thông nguyên khí Tỳ mạnh chức năng tỳ.
Bổ Thần : Giữ tinh thần vui vẻ, hát one two three…..
Share this article :

0 comments:

Post a Comment