Chương 10
Mười Ðức hạnh Cao thượng - Phần 1
---o0o---
Bố thí, Giới hạnh, với Xuất ly
Trí tuệ, Tinh tấn nữa là năm
Nhẫn, Chân, Kiên định, Từ bi,
và Xả bỏ nữa là mười.
(Lời Phật dạy, Buddhavamsa II , kệ 76)
Trí tuệ, Tinh tấn nữa là năm
Nhẫn, Chân, Kiên định, Từ bi,
và Xả bỏ nữa là mười.
(Lời Phật dạy, Buddhavamsa II , kệ 76)
Muốn tu Thiền, hành giả cần có ba đức tính: Độ lượng, Đức hạnh và Từ tâm. Nhưng cuộc sống tâm linh cao đẹp còn cần đến những đức hạnh khác nữa và chúng cũng cần được vun trồng.
Những đức hạnh này là Paramis, từ chữ Parama (Ba-la-mật) có nghĩa là tối thượng hay siêu việt, là bản tánh chân thật đã có sẵn trong chúng ta. Nếu không, có khác nào ta vun trồng từ mảnh đất hoang. Vì chúng đã có sẵn trong ta , ta có thể bắt đầu từ đó. Tuy nhiên nếu ta không có ý muốn thực hành những điều thiện này, ta sẽ không có được một tâm mạnh mẽ và ổn định, là điều tôi cần để làm chủ nghiệp mình.
Chúng ta luôn phải dựa vào tình cảm và lòng tốt của người khác, phải dựa vào môi trường chung quanh và sự thoải mái của thân. Chừng nào chúng ta còn phải dựa vào một hay tất cả những thứ kể trên , là ta còn phải nô lệ chúng. Mà phải sống kiếp nô lệ thì chẳng thú vị gì. Phải luôn sống trong sự sợ hãi. Dĩ nhiên, ai cũng có những nỗi sợ hãi, nhưng phải tùy thuộc vào người khác, hay hoàn cảnh thì không thể có được sự tự do suy nghĩ hay hành động. Những thứ tự do sẽ giúp chúng ta được giải thoát. Nói như thế không có nghĩa là chúng ta muốn làm gì cũng được. Tự do tư tưởng có nghĩa là ta có những suy nghĩ độc lập, cá biệt và có thể tự quyết định hành động của mình.
1. Bố Thí
Ðiều thiện đầu tiên ta cần bắt đầu với là Bố thí, chìa khóa mở mọi cánh cửa. Không có nghĩa là những đức hạnh khác kém quan trọng, nhưng nếu lòng bố thí không được vun trồng, thì con đường tiến đến một đời sống đạo đức khó thể khai thông. Chúng ta phải bắt đầu cuộc hành trình và đó là bước đầu tiên, là đức hạnh đầu tiên ta cần phải có.
Ðức Phật nói về ba loại bố thí: loại cho người ăn xin , loại cho bằng hữu và loại vương tước. Loại bố thí cho người ăn xin là khi ta bố thí những thứ ta không cần đến - những thứ khi dọn dẹp nhà cửa ta cần vất đi. Bố thí những thứ này, dầu có tốt hơn là không bố thí, nhưng không được rộng rãi lắm, vì ta không làm giảm bớt những tham muốn và bám víu của mình.
Loại bố thí thứ hai là khi ta chia sẻ những gì ta có với người quanh ta. Ta bố thí có chừng mực, bố thí phần này và giữ lại phần khác.
Loại bố thí vương tước là khi ta cho nhiều hơn ta giữ lại. Rất hiếm thấy có phải không? Phần đông chúng ta không làm thế.
Bố thí cần phải có động lực chính đáng. Nếu ta bố thí vì muốn đánh đổi lại một thứ gì đó - lợi lộc, lời khen tặng, lòng biết ơn - thì sẽ chẳng lợi ích gì. Ðiều này nghe có vẻ nghịch lý: Bố thí không phải để được nhận trả lại điều gì đó. Bố thí chỉ vì ta muốn bố thí. Nhưng nếu suy xét kỹ ta sẽ thấy sự thật rất rõ ràng.
Nếu ta bố thí chỉ vì muốn bố thí, ta chắc chắn sẽ được hạnh phúc, vui vẻ, tâm an bình và sung sướng. Người ta có thể bố thí vì cảm thấy mình dư dả. Hay vì muốn chia sẻ với người khác sự sung túc, giàu có của mình. Hoặc bố thí vì lòng từ bi đối với người khác. Ðức Phật bố thí vì lòng từ bi đối với chúng sanh.
Bố thí không chỉ bằng tài vật. Không phải ai cũng có của cải vật chất để ban phát, dầu phần lớn đều có khả năng đó. Thật ra phần đông chúng ta không nhớ mình có gì nữa, cho đến khi phải dọn nhà, lúc đó ta mới thấy mình có quá nhiều. Chúng ta qua có nhiều những đồ dùng trong nhà đến nỗi ta có thể cho bớt đi mà vẫn không thấy thiếu thốn.
Nhưng của cải không phải là thứ duy nhất ta có thể san sẻ. Ta có thể chia sẻ thời gian, sự quan tâm chăm sóc của mình cũng như chia sẻ tài năng khả năng của mình. Ðó là mặt quan trọng của bố thí , và sự bố thí này được chính phủ cũng như các cơ quan từ thiện thực hành rộng rãi. Chỉ có một điều là với những hình thức từ thiện này, đôi khi người trực tiếp làm các công tác này chỉ làm vì đồng lương chứ không vì lòng từ bi thật sự, nên công việc làm của họ có tính cách thương mại. Nhưng nếu ta bố thí khả năng, tài năng của mình, mà không nghĩ gì đến việc trả ơn thì ta bố thí vì lòng từ. Ðức Phật đã bố thí Pháp với lòng thương xót cho chúng sanh.
Sự bố thí này không chỉ có đi mà cũng có lại. Ta càng bố thí vì lòng từ bi, lòng từ bi trong ta càng tăng trưởng. Ðiều này cũng dễ hiểu thôi nhưng ít ai nghĩ đến. Có người bố thí để được người khác tử tế lại với mình. Nhưng nếu ta bố thí thật sự vì lòng tốt phát ra từ trái tim, thì rõ ràng ta phải có nhiều lòng tốt hơn thế để an phát cho người khác.
Tuy nhiên bố thí dù dưới hình thức nào cũng giúp ta bớt chấp Ngã, và đó là lý do tại sao bố thí được kể đầu tiên trong mười điều thiện mà ta cần vun trồng, bảo vệ. Khi Ðức Phật chưa thành đạo, đó là những đức tính Ngài hoàn thiện và có bao nhiêu câu chuyện về các đức tính này của Ðức Phật trong quyển Jataka - Túc Sinh Truyện, chuyện từ các tiền kiếp của Ðức Phật.
Lòng từ bi của bậc Bồ tát còn đi xa hơn nữa, họ còn bố thí cả thân mình. Hy sinh tánh mạng mình cho ai là cách bố thí cao cả nhất. Người tầm thường như chúng ta khó mà làm nổi. Tuy nhiên có nhiều mức độ bố thí, mà một sự bố thí dù nhỏ đến thế nào, cũng sẽ làm giảm bớt lòng chấp Ngã của ta. Bố thí nhiều hơn sẽ làm giảm nhiều hơn nữa lòng chấp Ngã, nếu đằng sau đó là những động lực chính đáng.
Làm giảm Ngã chấp là mục đích trên con đường thanh tịnh hoá, dần dẫn ta đến kinh ngiệm của sự Vô ngã. Ta không thể chỉ hy vọng, cầu nguyện hay tưởng tượng mình sẽ được có kinh nghiệm đó, trừ khi ta bắt đầu làm gì đó để thay đổi sự bám viú vào tự Ngã. Bằng cách nào? Bố thí là một sự khởi đầu tuyệt vời.
2. Giới hạnh
Kế đến là giới hạnh, liên quan đến việc giữ gìn năm giới. Ðức hạnh này làm giảm bớt và dần giúp ta chế ngự được lòng tham và sân. Làm giảm bớt lòng sân tham cũng là một cách để làm giảm Ngã chấp vì sân tham chỉ có thể phát sinh do có các ảo tưởng về Ngã.
Tất cả các Pháp của Ðức Phật cũng là như thế. Ðôi khi ta cảm thấy bối rối trước các giáo lý của Ðức Phật về sự giải thoát tâm linh. Nhưng các giáo lý này giống như những mảnh rời của một bản hình xếp khổng lồ. Khi ta có thể đặt một vài mảnh vào đúng vị trí của chúng, thì các mảnh còn lại sẽ được an bài thôi. Tất cả Pháp đều nhắm đến việc trước tiên làm giảm lòng chấp Ngã, rồi dần dần đến chỗ phá bỏ hoàn toàn ngã chấp, để đi đến Vô ngã.
Tuân giữ các giới luật là một phần của bức ảnh tổng thể đó. Khi chúng ta không làm hại đến các sinh vật khác, thì lòng ta bớt sân hận. Ta chỉ có thể làm hại hay huỷ hoại những gì ta không thích. Khi ta không lấy những gì không phải của mình, thì lòng tham được giảm xuống. Chỉ khi có lòng tham , ta mới lấy lại của cải của người. Cũng thế đối với những sai phạm trong tình dục. Ác ngữ là do lòng tham hay sân mà ra. Các thứ độc hại như rượu, ma túy là do lòng tham muốn thỏa mãn nhục dục mà những thứ này có thể dễ dàng mang đến cho ta.
3. Xuất ly
Xuất ly thường được nghĩ đến như một đức tính của riêng các tăng ni, các hành giả hay những người sống ẩn dật trong các hang núi, nhưng đó không phải là một suy nghĩ hoàn toàn đúng. Xuất ly có nghĩa là buông xả những ảo tưởng về tự Ngã. Nếu trong khi toạ Thiền ta không cố gắng phần nào làm được như thế, thì ta khó mà đạt được Thiền định.
Cái Ngã của ta thích được nuông chiều, chú ý đến luôn. Khi bị bắt phải im lặng, và không được làm điều gì thú vị, nó phản ứng lại dữ dội, và cố thoát ra khỏi tình trạng đó bằng những việc làm như trò chuyện, đọc sách, mơ màng hay bất cứ thứ gì vừa lòng nó. Trừ khi chúng ta có thể phá bỏ những thói quen này, việc tọa Thiền của ta khó thể thành công.
Cũng thế tất cả các thiện tánh đều giúp cho sự tọa thiền của ta. Chúng nâng đỡ cột sống của ta. Thiền định cần có một cột sống vững mạnh, không phải chỉ do ngồi thẳng, mà còn phải có tâm chánh niệm.
Muốn bước trên con đường tâm linh, ta cần phải biết xuất ly. Ðiều đó có nghĩa là buông bỏ mọi ý niệm về cái tôi, mọi tham vọng, ước muốn của cái tôi. Tất cả những suy nghĩ đó chỉ cũng chỉ củng cố thêm lòng chấp Ngã, đưa ta đến chỗ sai lầm. Những gì ta nghĩ ta sở hữu - cái nhà "của tôi" bàn ghế "của tôi", chồng "của tôi", vợ "của tôi", con cái "của tôi" thân quyến "của tôi", xe "của tôi" , nghề nghiệp "của tôi", văn phòng "của tôi", bạn bè "của tôi" - làm cho "cái tôi" cảm thấy an toàn hơn vì tất cả hợp thành một hệ thống bảo vệ.
Tạo cho tự Ngã những ảo tưởng về một sự vững bền. Nhưng không có người nào hay sở hữu nào thường hằng, vĩnh viễn cả, tất cả đều luôn biến đổi.
Nếu thật sự có sự bền vững đó, thì cái nhà , cái xe càng to, càng có nhiều bạn bè con cái, nhiều vợ, nhiều chồng , thì con người càng cảm thấy thêm an tâm. Thực tế thì càng có nhiều những thứ kể trên, con người càng thêm phiền não, lo âu. Thử tưởng tượng xem nếu ai đó có mười ông chồng hay bà vợ thay vì một. Hãy dẹp bỏ ngay tư tưởng đó! Ðó chỉ là một trong những tà kiến về những gì có thể mang đến cho con người sự an tâm.
Ta chỉ thích bao bọc mình với những gì tạo nên "cái tôi", "cái của tôi". Tư duy của ta khiến ta trở nên như thế, dầu rõ ràng ta không thể làm chủ ai khác được. Con người có thể ra đi không định trước, có thể chọn lầm người phối ngẫu, hay bỏ rơi nhau không lời từ giã. Mỗi người tự tạo ra nghiệp của họ. Vậy mà ta vẫn gọi họ là "của tôi", và thật sự tin rằng họ thuộc về chúng ta. Một khi ta tin như thế ta bám viú vào họ suốt đời.
Họ phải lúc nào cũng là "của tôi". Ðó là quá trình tự đồng hóa cái Ngã với gia đình của chúng ta, với công việc của chúng ta và với tất cả những sở hữu của chúng ta. Thay vì với chỉ một "cái tôi", giờ chúng ta bành trướng, bao gồm thêm nhiều người khác nữa. Như thế chúng ta trở nên to lớn thêm.
Xuất ly khỏi sự đồng hóa này là một bước quan trọng khởi đầu: chỉ khi nào ta có thể tự đứng một mình, ta mới có thể thực sự tu tập theo con đường đạo. Không có nghĩa là ta phải đuổi mọi người ra khỏi nhà. Nhưng khi ta còn tùy thuộc vào ý kiến, hành động của người khác, thì làm sao ta có thể thực tập cho sự tự do, giải thoát của chính mình?
Không có sự dựa dẫm này, cái Tôi sẽ trở về kích thước bình thường, của chỉ cái tôi, không có gì hơn. Như thế dầu tự Ngã vẫn chưa được phá bỏ, nhưng ít nhất nó cũng nằm trong khả năng chế ngự của ta. Một thân, một tâm, không sở hữu, không bám viú vào bao nhiêu người, bao nhiêu thứ khác.
Ngay đối với một thiền sư, nếu vẫn muốn đạt được điều gì đó hay trở nên thế này thế nọ, thì cũng chỉ là một cách củng cố thêm Ngã chấp. Thay vì có mặt trong giờ phút hiện tại, chánh niệm trong từng giây phút, ta muốn trở nên, là một cái gì thuộc về tương lai. Có thể nói gì về tương lai chứ? Không có gì. Tương lai thì hoàn toàn trống không. Nhưng có mặt , ngay trong hiện tại, là điều ta có thể làm được với tất cả chánh niệm.
Trở nên, trở thành một thứ gì hơn chính chúng ta - một thiền sư đạt đạo, một ông chủ có danh vọng giàu có, được mến mộ - sẽ làm cho lòng chấp Ngã của ta thêm nặng. Trở nên, trở thành không ích lợi gì, là như thế nào là ích lợi hơn. Lúc đó ta sẽ dễ đối trị ngã chấp hơn. Ta có thể chánh niệm về sự có mặt đích thực của mình. Nhưng ta không thể chánh niệm về cái ta sẽ trở thành. Nó không có thực. Nó chỉ là những giấc mơ ban ngày. Nó chỉ là ước mơ và hy vọng. Nó là điều ta muốn xuất ly.
Trong quá trình xả ly, ta có thể buông bỏ sở hữu, sự khẳng định của cái tôi và các vọng tưởng. Nếu trong đời thường, ta không biết buông xả, thì ta càng khó buông xả hơn trong Thiền. Khi Thiền định ta phải buông xả tư duy , ước vọng, mọi phán đoán, lòng mong muốn, cầu vọng, các dục lạc. Ta phải biết buông bỏ nếu ta muốn hành Thiền, vì thế ta cần phải thực tập sự xả bỏ mọi lúc, mọi nơi. Không có nghĩa là ta phải vứt bỏ mọi sở hữu hay xa lánh gia đình. Tâm chỉ phải vứt bỏ tâm bám víu, sự khẳng định mình qua những thứ đó.
Xuất ly có nhiều hình thái. Nó có thể là sự tự khắc kỷ như dậy sớm hơn thường lệ, xả bỏ khuynh hướng muốn được hưởng thụ. Xuất ly cũng có nghĩa không phải lúc nào muốn ăn thì ăn, mà phải chờ đến lúc thật sự đói. Khi từ giã cuộc đời, ta phải buông bỏ mọi thứ. Ta không thể mang theo của cải hay người thân mà ta coi là của chúng ta, cũng như không thể mang theo thân của mình. Tốt hơn hết là ta nên hiểu về cái chết trước khi nó đến.
Ðó là lý do tại sao người ta thường vật vã trước giờ ra đi. Một số ít người có thể ra đi một cách bình thản, nhưng phần đông không thế, vì họ chưa sẵn sàng để buông bỏ tất cả. Trước đó , họ chẳng bao giờ nghĩ đến giờ phút này.
Tất cả những gì ta bám viú vào là một trở ngại, một vật cản. Thí dụ như nếu tôi cứ ôm mãi chiếc gối này, không chịu bỏ ra, thì tôi sẽ gặp trở ngại khi bước ra cửa. Thực tế, ta thường bám víu vào người khác và điều đó cần phải buông bỏ. Không có nghĩa là ta phải xua đuổi người khác. Nhưng có nghĩa là ta phải đoạn diệt thái độ bám viú của ta với người khác, đó mới chính là trở ngại lớn nhất. Nếu ta không sửa đổi theo hướng đó, việc hành Thiền của ta cũng bị trở ngại thôi, vì ta cũng sẽ bám viú vào tư tưởng, hy vọng, ước muốn của ta.
Chúng ta có thể vẫn ở trong căn nhà của mình, vẫn mặc quần áo đó, vẫn không có gì thay đổi về hình dáng bề ngoài, nhưng bên trong ta đã xả ly được những dính mắc của mình. Không có nghĩa là ta không còn thương yêu gia đình của mình nữa. Ngược lại, tình thương mà không có sự bám viú, sở hữu là loại tình thương không có lòng sợ hãi, hoàn toàn thuần khiết.
Trong khi tình thương với lòng bám viú, sở hữu là một cực hình. Nó bao gồm những làn sóng tình cảm và thường tạo nên những hàng rào kẽm gai vô hình. Tình yêu thật sự là tình yêu không có sự sở hữu, được cho mà không mong đợi một sự trả lại. Nó cho ta cảm giác có người đứng cận kề nhưng không dựa vào ta.
4. Trí tuệ
Muốn đi đúng hướng trong cuộc đời ta cần có nghiệp thiện kế tiếp là trí tuệ. Bổ sung cho trí tuệ là đức tin. Ðức tin và trí tuệ là hai đức tính không thể tách rời.
Ðức Phật đã so sánh Ðức tin như một người khổng lồ mù với một gã nhỏ bé, tàn tật với đôi mắt cực sáng là Trí tuệ. Ðức tin đã nói với Trí tuệ rằng:"Tôi rất mạnh, nhưng tôi không thấy đường đi tới. Còn anh yếu đuối, nhưng mắt anh thì tinh. Hãy đến ngồi lên vai tôi. Hai chúng ta hợp lại thì nơi nào mà ta không đến được". Lòng tin mù quáng có thể dời non, nhưng nó sẽ không biết dời ngọn núi nào. Trí tuệ không thể thiếu để chỉ đường cho lòng tin. Trí tuệ có đôi mắt nội tâm thật sáng suốt.
Trí tuệ là một đức tin khá đặc biệt, vì ta không thể đạt được trí tuệ nếu không có tâm thanh tịnh.
Trí tuệ phát triển qua ba giai đoạn. Ðầu tiên là sự học hỏi sẽ mang đến kiến thức. Ta có thể có được kiến thức qua nhà trường, sách vở, và qua lời nói của các bậc uyên thâm. Sau đó ta phải suy gẫm về những điều đã học hỏi được để chúng trở thành một phần của nội tâm ta. Như khi thực phẩm vào cơ thể ta, những gì cơ thể không sử dụng sẽ bị thải ra ngoài. Những thứ khác sẽ được đưa vào máu, tạo ra năng lực. Cũng thế với kiến thức.
Ta có thể tiêu hoá kiến thức, thải bỏ những gì ta không cần đến và đưa những cái bổ ích vào máu. Chúng sẽ dần dần chuyển đổi để tạo nên trí tuệ, cũng như đồ ăn được tiêu hoá dần chuyển đổi thành nhiên liệu để giúp cơ thể sinh tồn. Ðây là sự chuyển đổi nội tâm và không đòi hỏi ta phải nghiền ngẫm, tiêu hóa hàng tấn kiến thức. Nó không đòi hỏi số lượng , mà cần chất lượng, cũng như đồ ăn vào cơ thể của ta vậy.
Suy gẫm, hấp thụ những điều ta học hỏi được trước khi tiêu hoá chúng. Ðiều này đòi hỏi phải có tâm hành, đó là một phần quan trọng trong sự trưởng thành, cũng như đồ ăn vật chất đúng chất lượng là yếu tố quan trọng cho cơ thể tăng trưởng. Nếu không có sự hoạt động của nội tâm đối với những điều Phật dạy, thì những điều đó vẫn là lời của Phật , của Tăng. Chúng sẽ không bao giờ là của ta, dầu ta có lập đi , lập lại biết bao nhiêu lần. Trừ khi ta nghiền ngẫm , hấp thụ, tiêu hoá được những điều ta đã học hỏi, ta mới có thể chuyển đổi chúng thành trí tuệ nội tâm.
Càng có nhiều trí tuệ, ta càng dễ có một đời sống bình an không có nhiều biến động lên xuống. Thiếu trí tuệ, ta sẽ thấy lúng túng, khó xử trước nhiều hoàn cảnh. Ðôi khi phải một thời gian sau ta mới thoát ra khỏi. Nếu có trí tuệ ta đã không phải lâm vào cảnh khó xử đó rồi. Hơn nữa bên cạnh trí tuệ còn có thêm lòng tin thì nó càng thêm sức mạnh. Lòng tin rộng lớn đầy tự tin, không có gì có thể lay chuyển được. Cộng thêm đôi mắt sáng của trí tuệ, chúng sẽ đưa ta đến đích cuối cùng.
Chỉ có trí tuệ không có lòng tin, đôi khi đưa ta đến cái nhìn hai chiều. Ðối với vấn đề gì, thắc mắc gì ta cũng nhìn theo hai chiều. Nó không có sự gắn bó bên trong như đối với lòng tin. Lòng tin không cần dựa vào một thứ gì ở bên ngoài. Lòng tin mà dựa vào yếu tố bên ngoài nào đó, thì lòng tin đó không bền vững, vì nó cần yếu tố đó để hiện hữu như một chứng minh, không thể nghi ngờ gì. Không ai có quyền được nghi ngờ về những gì họ tin vào. Lòng tin hữu hiệu nhất là lòng tin vào chính khả năng thành công của mình. Thêm nữa, lòng tin có thể phát sinh khi ta đã chọn được con đường đi đúng. Ðó là niềm tin không thể lay chuyển vào Pháp, cộng với con mắt sáng của trí tuệ.
5. Năng lực
Kế tiếp là năng lực hay tinh tấn, mà ta có thể so sánh với nhiên liệu để cho máy chạy. Chúng ta phải tự chế ra nhiên liệu cho mình. Ðó cũng là một trong bảy yếu tố của Giác ngộ, nên ta có thể thấy sự quan trọng của nó như thế nào.
Năng lực có thể được sử dụng dưới nhiều hình thức. Người ta có thể bỏ ra rất nhiều năng lực để trở thành một nhà tỷ phú hay để xây một ngôi nhà hay để lợi dụng lòng tốt của ai. Tất cả những việc ta làm đều cần có năng lực...
0 comments:
Post a Comment