Home » » Năm Chướng Ngại - Phần 3 ( Chương 6 )

Năm Chướng Ngại - Phần 3 ( Chương 6 )

Written By Giai phap ma nguon mo on Monday, September 5, 2011 | 11:29 PM

Chương 6

Năm Chướng Ngại - Phần 3

---o0o---
3. Hôn trầm và Thụy miên
Tôi đã nói các bạn về hai kẻ thù của chúng ta, bất hạnh, thay ta còn ba kẻ thù khác nữa. Hai kẻ thù đầu: tham và sân, là chướng ngại lớn nhất của con người. Nói vậy không có nghĩa là ta không có cái đối trị. Ðó là sự rộng lượng và lòng từ bi. Vấn đề là ta phải biết gieo trồng cái tốt và trừ bỏ cái xấu.
Nói thì dễ nhưng hành khó lắm thay. Nhưng nếu ta không cố thực hành chúng thì ta đã không đi theo con đường Phật dạy. Ðó là những công việc ta phải làm không ngừng nghỉ. Những công việc này không liên quan gì đến việc ngồi thiền. Chúng đòi hỏi tất cả thời gian của ta. Giả thử ta ngủ nghỉ khoảng 5,6 hay 7 tiếng một ngày, ta còn lại 17 tiếng.
Nếu ta nghĩ rằng khi ngồi thiền một, hai tiếng sáng chiều là đã thực hành được những điều này, nghĩ như thế ta chẳng đi tới đâu cả. Nếu ta chỉ nhớ lời Ðức Phật dạy trong vài tiếng mỗi ngày, còn lại không nhớ tới - điều này nghe có vẻ lạ, nhưng vẫn thường xảy ra - thì ta khó thể tìm được sự Giải thoát.
Kẻ thù thứ ba của ta là hôn trầm hay thụy miên, uể oải, và mê ngủ, hai kẻ thù của ta lúc tọa thiền có phải không? Chúng ta chắc ai cũng kinh nghiệm qua. Ðó là lúc tâm không ngủ, nhưng cũng không thức. Trạng thái dật dờ khó thể làm nên chuyện gì. Chỉ khác với cái ngủ là ta có thể dễ dàng ra khỏi đó hơn. Nhưng dầu không mê man như khi ngủ, nó vẫn đáo đi, đáo lại.
Tâm trạng này ở ngoài đời được coi là không có phương hướng, từ đó dẫn đến thiếu nghị lực. Nó là một trạng thái thông thường đến nỗi, khi một người nào đó có nghị lực, ta sẽ nhận ra ngay. Và Nghị lực là một trong bảy yếu tố dẫn đến sự Giác Ngộ. Thật là một điều không thể thiếu trong việc rèn luyện tâm.
Nghị lực nẩy sinh khi ta có một phương hướng nhất định. Ta biết rõ con đường phải đi và miệt mài đi tới. Nhưng khi ta không có mục đích gì rõ ràng hơn là giữ cho thân thể tứ đại này sống, thì không có nghị lực gì có thể phát sinh. Sống như thế không có gì hứng thú cả. Không ai có thể sống được như thế! Dồn tất cả sức lực, tâm trí vào chỉ để sống không phải là một việc làm hiệu quả, ta sẽ không thể có nghị lực để sống như thế. Trái lại, ta còn cảm thấy bị đè nén trì kéo xuống.
Ðức Phật đã so sánh hôn trầm và thụy miên giống như một nhà tù. Khi ta bị giam trong một căn phòng nhỏ, trong tù ta khó có thể làm được gì cho đến khi được tự do. Khi tâm trí ta bị sự uể oải, ngầy ngật (uể oải ở thân thể, và ngầy ngật trong tâm) giam hãm, tù túng đến nỗi ta chỉ có đủ nghị lực để kéo lê một kiếp sống.
Phần đông chúng ta không biết hay không nghĩ hành thiền là một việc làm cần thiết cho ta, nên tâm ta dễ dàng đầu hàng các trở ngại. Ta phải nắm thật rõ về sự lợi ích của việc tọa thiền. Ta không chỉ cần ăn ngủ, tắm rửa, giặt giũ, là những chuyện bình thường trong cuộc sống, không cần nhiều đến năng lực. Chúng chỉ là các hoạt động theo bản năng. Nhưng hành thiền đòi hỏi ta phải có nghị lực, và nghị lực chỉ có thể phát sinh khi tâm biết được tầm quan trọng của thiền, nếu tâm ta biết rõ điều đó thì ta biết là ta phải làm gì.
Khi mê đọc một quyển sách, ta có thể thức đến nửa đêm để đọc, mà không thấy mệt, ta chỉ ngồi đó miệt mài đọc. Hay khi dự đám tiệc, ta có thể nói suốt buổi mà không mệt vì ta vui thích.
Tu tập thiền cũng phải làm ta say mê. Khi đó không còn lý do gì mà tâm không phấn khởi. Lúc đầu, tập thiền thật không thú vị chút nào. Nó có vẻ phiền phức quá. Khó quá. Ðau quá. Nhưng khi tâm đã hiểu ra được tầm quan trọng của việc ta làm, biết từng giây phút tâm khởi niệm, ta sẽ thấy hứng thú để tìm hiểu chính tâm ta.
Còn gì hấp dẫn hơn thế chứ? Ðọc một quyển sách hay trò chuyện với người khác, ta chỉ biết về người khác. Nhưng nếu ta có thể theo dõi tâm từng giây phút, lúc nó dấy niệm, lúc nó tĩnh lặng, rồi lại dấy niệm, lại tĩnh lặng, thì đó là một việc hấp dẫn và lợi ích nhất mà ta có thể làm cho chính mình.
Một lần Ngài Mahà Moggallàna (Ðại Mục-kiền-liên) đến sám hối với Phật rằng ông đã ngủ gục trong khi tọa thiền. Ðức Phật đã khuyên răn ông điều gì? Phật dạy rằng khi cảm thấy buồn ngủ, hãy mở mắt ra, nhìn ngọn đèn, chà xát mặt, kéo tai, cử động thân mình để cho máu chạy đều, và nếu cần đứng dậy đi. Gì cũng được miễn là đừng có nằm xuống ngủ.
Ðó là cách thức bên ngoài để chữa trị bịnh buồn ngủ, nhưng ta cũng có những cách thức khác để dẫn tâm đi theo đúng hướng đã vạch như là quán tưởng về cuộc đời thì vô thường, sự chết thì bất ngờ. Ðây là cơ hội tốt nhất để ta tham thiền. Ta có bạn đồng tu, có thầy dẫn dắt. Có đủ ăn, có nơi ở, thân không bịnh hoạn. Tất cả các thứ này không phải ai cũng có được. Chúng là kết quả của căn lành của ta. Ðó là phương cách giúp tâm ta tăng thêm nghị lực.
Hãy nhớ là không còn lúc nào khác hơn là lúc này. Tương lai dường như chắc chắn trước mặt nhưng đó chỉ là ảo tưởng. Ta có thể chết bất cứ lúc nào. Khi ta chết - điều không ai tránh khỏi - và tái sinh - ai cũng thế trừ khi ta là các vị A la hán - để bắt đầu trở lại tất cả. Ta phải học đi, học nói, ăn, mặc... Phải đi học trở lại, kết hôn, có con, gả con. Ðó là tất cả những gì ta vẫn làm đi làm lại từ kiếp này qua kiếp khác.
Vì thế, hãy dùng thời gian còn lại cho những gì quan trọng nhất. Ta đã trải qua tất cả những thứ đó. Ðã học đi, học nói, ăn mặc. Ðã qua bao nhiêu trường học. Có con cái. Ðã chứng kiến con mình thành lập gia đình. Vì thế ngay bây giờ là thời điểm để đổi thay. Không có lúc nào tốt hơn lúc này.
Nếu ta dùng phương cách này để tăng thêm nghị lực cho tâm thiền định, thì nghị lực sẽ tự phát sinh, giống như khi ta bật công tắc điện lên, bóng đèn phát sáng, và một khi còn có dòng điện thì ngọn đèn còn sáng.
Tu tập thiền cần rất nhiều năng lực. Thật là lạ khi ta ngồi (tọa thiền) hay đi chậm rãi (thiền hành) mà ta vẫn còn nhiều năng lực. Lý do tại sao ta cần nhiều năng lực vì tâm ta không ngừng làm việc. Nếu tâm không luôn phát khởi các vọng tưởng, hy vọng, ước nguyện, thì tâm đã không mệt nhọc chút nào. Không phải do các hoạt động của thân thể hàng ngày, mà tất cả chúng ta ai cũng mệt lử sau một ngày.
Nhưng là vì tâm luôn hoạt động lăng xăng, luôn phán đoán. Tôi thích cái này, tôi không thích cái kia. Tôi phải có thứ này, tôi sẽ vất thứ kia - chính những thứ đó làm mệt mỏi tâm trí ta. Vì thế người làm việc bằng đầu óc cũng mệt như hay hơn cả người trồng cây hay làm đường.
Khi ta có thể chú tâm, giữ tâm lắng đọng thì tâm được nghỉ ngơi. Nhưng trước khi ta có thể làm được như thế, ta vẫn phải dùng tâm để tự nhủ ta không được bỏ cuộc. Chịu thua trước cái đòi hỏi bản năng là thói thường tình của nhân thế. bản năng ta là muốn được thoải mái, dễ chịu. Trong khi Ðức Phật nói rằng: "Thắng một vạn quân, không bằng thắng lòng mình". Thắng lòng mình có nghĩa là không chịu thua trước các đòi hỏi của bản năng, không để tâm nghe theo những điều đó.
Muốn được ngồi yên tọa thiền phải có một lý do chính đáng nào đó để tâm có đủ nghị lực làm điều đó. Vì ước muốn được chứng ngộ, không phải là một lý do chính đáng. Lý do đó không đủ mạnh để giúp ta tu tập thiền, nhưng phần đông chúng ta đều tu thiền với mục đích đó. Do đó ta sẽ dễ bị thất vọng, vì được chứng ngộ không phải là điều dễ dàng đạt được. Lúc đó nghị lực để giúp ta thiền định sẽ biến mất vì ta không đạt được điều ta muốn, lúc đó việc thiền quán cũng là một thứ phiền não như bao thứ phiền não khác.
Thiền chỉ có một mục đích duy nhất là sửa soạn cho tâm thoát khỏi những đau khổ, chuẩn bị cho tâm được giải thoát. Ðó là cứu cánh của phương tiện này, chứ không phải là để được chứng ngộ. Việc đó cũng sẽ xảy ra, tại sao không? Hãy cảm ơn rằng việc đó có thể xảy ra, và coi đó như một động lực giúp ta tiếp tục công việc của mình. Nhưng khi nó không xảy ra thì cũng chẳng làm sao. điểm chính là tâm ta phải tu tập thiền để được giải thoát.
Ðức Phật đã so sánh trạo cữ và hôn trầm giống như ao hồ mà bùn đã nổi lên mặt. Mặt hồ đấy bùn thì ta không thể soi mặt vào, chỉ có bóng đen. Trong trạng thái tranh sáng tranh tối giữa ngủ thức ta không thể có sự tỉnh thức. Ngay trong đời thường, khi tâm ta bắt đầu nói "Tôi chán ngấy.Khó khăn quá. Tôi không thể tiếp tục. Tôi không muốn làm nữa. Tại sao tôi phải làm chứ? Ðâu có ai làm giống như tôi đâu", đó là tâm đầy bùn, không có sự sáng suốt, không có một phương hướng rõ ràng cho chính mình.
Một phương hướng rõ ràng đem lại cho ta nghị lực cần thiết. Khi ta biết đường ta đi, nơi ta đến. ta có thể hăng hái sánh bước. Khi ta không có đích đến, ta không có niềm say mê, hứng thú với điều gì. Thật khó tìm được một hướng đi đúng trong cuộc đời này, nhưng Ðức Phật đã chỉ cho ta con đường mà Ngài đã chứng nghiệm, để đi đến sự tự do, đoạn tiệt khổ đau, giải thoát, Niết bàn.
4. Trạo cữ_
Kẻ thù kế tiếp là trạo cữ, lăng xăng lo lắng hay lo ra. ai cũng bị đau khổ vì kẻ thù này, nên nó rất quen thuộc với chúng ta. Thực ra, cả năm chướng ngại đều rất quen thuộc với chúng ta. Ai cũng mắc chúng ở những mức độ khác nhau. Vì thế ta cần phải suy gẫm xem chướng ngại nào là kẻ thù nguy hiểm nhất đối với ta. Tất cả đều nằm trong ta chờ cơ hội để lộ diện. Nhưng có một hay hai chướng ngại chỉ cần ta khẽ động tịnh là nhảy ra ngay, làm chủ ta. Ðó là những chướng ngại ta cần đối đầu tu sửa.
Tâm lăng xăng khiến thân cũng chẳng yên. Thân là tên đầy tớ ngoan ngoãn của tâm. Thân chỉ là một xác chết khi không có tâm. Bất cứ thân làm điều gì cũng là do tâm điều khiển, dầu ta có ý thức về điều đó hay không. Thông thường các phản ứng của ta xảy ra tức thì, theo bản năng nên ta không biết rằng tâm đã ra lệnh: "Làm cái này, làm cái kia", ta nghĩ là thân ta hành, nhưng không thể có thân hành, nếu không có tâm khiển.
Tâm sinh ra lăng xăng phần lớn là do những kinh nghiệm xảy ra trong quá khứ, những chuyện ta đã làm, hay đã không làm, tất cả những thứ ta ước muốn thực hiện trong đời, nhưng đã không thực hiện. tâm lăng xăng khó tập trung vì niệm cứ dấy khởi liên tiếp.
Ðức Phật đã so sánh nó với một mặt hồ đầy sóng gió. Khi tình cảm ta đầy sóng gió, ta sẽ chết đắm vì nó. Ta không còn thấy sự việc rõ ràng nữa.
Lo lắng thường vì tương lai, và nhiều người trong chúng ta rất hay lo lắng, mà quên ngừng lại để suy nghĩ sự lo lắng đó thật vô ích và kỳ quặc. Lo lắng về tương lai là điều vô ích. Vì có lo lắng về tương lai, ta cũng chẳng thể sống cho tương lai đó. Vì cuộc đời là vô thường luôn có sự thay đổi, không những ta sẽ già hơn, khôn ngoan hơn - hy vọng là thế - mà hoàn cảnh cũng đổi khác, tình cảm, suy nghĩ của ta cũng khác. Thì lo lắng về tương lai thật vô ích.
Nếu bạn có những tấm hình khi bạn ở lứa tuổi 4, 8, hay 12,15, hãy lấy chúng ra và soi gương, so sánh gương mặt nào là của bạn. Bạn là chú, cô bé 4 tuổi, 8 tuổi, 15 tuổi hay là người đang nhìn vào kiếng bây giờ, hay tất cả cũng là bạn? Nếu tất cả là bạn, thì bạn đã là hàng ngàn con người khác nhau. Và đó chính là chúng ta, luôn biến đổi. Thì cô, chú bé 15, 20 tuổi đi lo về chuyện gì sẽ xảy ra cho một người già 60, có phải là vô ích không? Ta sẽ không thể nhớ cô, chú bé đó đã suy nghĩ, lo lắng điều gì. Cũng thế đối với sự lo lắng cho ngày mai. Dầu cho ta cố nhớ được mình đã lo lắng điều gì, cũng chẳng ích chi. Một con người hoàn toàn khác ngày hôm nay sẽ sống ở ngày mai.
Ðiều đó không có nghĩa là ta không thể dự định điều gì. Dự tính và lo lắng là hai việc khác nhau. Dự tính sẽ trở thành lo lắng khi ta tự hỏi không biết những dự tính của ta có thành sự thật không. Không có gì sai với sự dự tính, nhưng sau nó hãy quên nó đi cho đến ngày ta có thể thực hiện được mà không cần phải lo lắng với những chuyện gì sẽ xảy ra ở tương lai.
Lo lắng làm ta đau khổ, tâm ta bấn loạn. Nó tách ta ra khỏi thế giới thực tại, ngay giây phút này, là khoảnh khắc duy nhất ta thực sự sống trong đó. Những giờ phút ta đã đắm chìm trong lo lắng, là những giờ phút bị đánh mất đi. Nếu ta không sống cho từng giây phút hiện tại, có nghĩa là ta đánh mất cuộc sống. Khi ta hối tiếc dĩ vãng, lo lắng cho tương lai, ta không thực sự sống. Ta chỉ hoài niệm và phỏng đoán. Ðó không phải là cuộc sống. Cuộc sống không phải để suy tưởng về nó, mà để ta sống trong đó. Chỉ có như thế thì cuộc đời mới có ý nghĩa, và kinh nghiệm sống mới có thể xảy ra từng giây phút. Ðó là một trong những nghệ thuật, thiền có thể truyền cho chúng ta, sống trong giờ phút hiện tại mới thật là sống.
Tâm ta sẽ chẳng bao giờ được an bình, hạnh phúc hay tĩnh lặng nếu ta không sống trong giờ phút hiện tại. Tâm sẽ đắm chìm trong đấu tranh tư tưởng để làm những việc ta nghĩ đáng lý ra ta phải làm, để đến những nơi ta nghĩ là ta phải có mặt, để bảo vệ những tài sản ta cho là quý giá. Một cuộc chiến đấu gay go, đau khổ không ngừng nghỉ. Hạnh phúc, an lạc hình như không thuộc số phận chúng ta. nhưng ta có thể đạt được những thứ đó nếu ta cố gắng, nếu ta biết nhận diện kẻ thù và đuổi chúng ra khỏi nhà tâm của ta.
Căn nhà nội tâm của ta là nơi có bao vị khách không mời mà đến. Vì lòng hiếu khách ta để họ vào. Ðể rồi ta khám phá ra họ làm hư bàn ghế, đánh cắp đồ quý, phá hỏng cửa nẻo. Nhưng thay vì đóng cửa và không để họ vào lần nữa, hôm sau ta lại để họ vào. Ðó là nội tâm của ta, bị xâm chiếm bởi bao kẻ thù. họ tạo ra bao rối loạn trong tâm ta, không để ta có được an lạc, hoà bình mà ta không biết tại sao. Ta luôn đi tìm những lý do ở bên ngoài để tự biện hộ. Mỗi người có những lý do khác nhau nhưng đều giống nhau ở một chỗ. Chúng không thật, tất cả đều do ta tưởng tượng ra. Lý do chính là vì ngôi nhà tâm của ta không được yên ổn. Bên trong không an ổn thì căn nhà bên ngoài làm sao yên. Ta phản chiếu ra bên ngoài, những gì chứa đựng bên trong chúng ta.
Lăng xăng lo lắng không những vô ích mà còn là dại khờ. Ðức phật bảo chúng ta hành động u mê vì không nhìn thấy sự thật. Nhưng ta có thể thay đổi điều đó có phải không? Lăng xăng và lo lắng được gọi chung là lơ đãng. Chúng ta lơ đãng trong công việc mình làm, như là thiền quán. Nhưng điều đó cũng không chỉ thu hẹp trong việc thực tập thiền, nó còn ảnh hưởng đến đời sống thường ngày của ta. Ta quên chìa khoá, không biết để nó nơi nào. Ta không nhớ mình đang làm gì, vì ta xao lãng, lo lắng vấn đề gì đó. Ta khó hoàn thành công việc của mình tốt đẹp, an toàn khi tâm ta đang ở một nơi nào khác.
Ðức Phật chỉ cho ta năm cách để đối trị những tư tưởng xao lãng, lo ra, bằng các câu chuyện ẩn dụ. Như một người thợ mộc đóng hai khúc gỗ vào nhau và thấy là chúng không vừa nhau. Ông lấy ra và thay khúc gỗ khác vừa hơn. Ðó là nhờ có thay đổi. Nếu tâm ta cứ lo lắng về tương lai, tiếc nuối quá khứ thì cũng có sự không ăn khớp. Không có hạnh phúc không có an bình trong đó. Vậy thì hãy thay đổi! Hãy thay bằng cái vừa vặn, ăn khớp hơn. Khi tu thiền hãy để tâm thiền lắng sâu vào ta. Trong đời sống hàng ngày hãy để cho tâm được trọn vẹn hữu ích. hãy thay đổi!
Ẩn dụ thứ hai là về một người thanh niên và một cô thiếu nữ ăn mặc đẹp đẽ để đi ra ngoài. Khi ra tới đường, họ mới nhận ra có ở cổ mỗi người toòng teng xác một con thú chết. Quá xấu hổ, họ vội vã chạy về để gội rửa. Ta cũng nên xấu hổ khi tâm ta không trong sạch. Xấu hổ khi tâm ta đầy tiêu cực. Ðức Phật nói sự xấu hổ và sợ hãi là những chiến sĩ bảo vệ cho thế giới. Không có chúng, thế giới sẽ càng tồi tệ hơn.
Hầu hết chúng ta nghĩ rằng chỉ có bụi bặm, vết nhơ trên quần áo, hay thân thể mới có thể thấy được, nhưng đó chỉ là ảo tưởng. Những vết nhơ trong tâm ta cũng có thể nhìn thấy được, không phải bằng con mắt thường mà bằng mắt tâm. Ta biết khi nhìn một người giận hờn dù không nói lời nào. Ta biết khi một người ngã mạn. Hành động của họ, lời nói của họ đã mách với chúng ta điều ấy.
Vì hành động cũng như lời nói đều xuất phát từ trong tâm chúng ta. Nhất là hành động, ta thường không để ý đến lời người khác nói, trong khi hành động của họ mới chính là phản ảnh của nội tâm họ, tốt hay xấu. Hãy nhớ là những vết bẩn trong tâm ta cũng giống như xác thú chết ta đeo trên cổ. Nhưng ta có thể gỡ bỏ nó ra, và chỉ đi ra ngoài khi ta đã sạch sẽ, đẹp đẽ trở lại.
Một ẩn dụ khác của Ðức Phật để ví những tư tưởng xao lãng, lo ra giống như gặp người quen ở bên kia đường. Không nên băng qua đường để chào hỏi, bắt chuyện, mà cứ giữ con đường mình đang đi. Không nên để ý! Ðiều đó hơi khó. Vì khi ta không để ý đến chúng thì ta cũng đã bắt đầu có sự thay đổi. Làm được như thế đòi hỏi phải có một tâm cứng rắn. hai trường hợp đầu dễ xử hơn. Người ta có thể dễ xấu hổ vì ai cũng có lương tâm. nhưng bỏ qua coi thường các tư tưởng đi qua đầu không phải là điều dễ, nó đòi hỏi nhiều nghị lực hơn.
Ẩn dụ tiếp theo kể về một người đàn ông đang chạy trên đường, bổn phận thấy mình không được thoải mái, và nghĩ:"Tại sao ta phải chạy? Ta có thể đi mà". Nên anh ta bắt đầu đi, vẫn thấy khó chịu anh đứng lại. Rồi cũng không mấy tốt hơn, anh quyết định ngồi xuống, cuối cùng anh quyết định nằm xuống, và thấy thật là thoải mái.
Hãy nhận biết những khó chịu trong tâm, trong cả con người ta, khi những ý nghĩ vô ích, lo lắng, lăng xăng, xao lãng dấy khởi trong ta. Chúng không mang lại cho ta niềm vui, sự thoải mái nào, trái lại thì có. chúng làm ta lo lắng bực dọc. Hãy nhận ra sự phiền não này và biết rằng không ai ngoài ta trên thế gian này có thể đem lại sự thoải mái cho chính ta. Ðức Phật không làm được, giáo lý giải thoát của Ngài không làm được, cha mẹ ta, các thầy ta, bạn bè ta, tất cả đều không thể làm thay cho ta được. Chính chúng ta phải tự làm cho tâm mình được thoải mái, vui vẻ.
Ðó là bốn phương cách ta có thể sử dụng, nếu một cách không thành công, ta dùng cách kia, cách kia nữa. Nếu tất cả cách đều thất bại thì ta phải dùng đến biện pháp đè nén. Ðức Phật dùng ẩn dụ về một người mạnh mẽ, to lớn, nắm cổ một người yếu hơn, dìm xuống nước. Cũng thế ta dùng sức mạnh của mình để đẩy các ý nghĩ vô bổ ra khỏi tâm mình, và buộc tâm không nghĩ về chúng. Ðó là biện pháp tối hậu, nhưng ta có thể thấy rằng thà là đè nén những ý nghĩ xấu, tiêu cực hơn là tiếp tục nghĩ về chúng.
Dần dần ta sẽ học được cách thay thế chúng bằng những ý nghĩ cao đẹp hơn. Khi đè nén những tư tưởng thấp hèn, có nghĩa là ta không cho phép chúng tạo nếp, tạo rãnh trong tâm ta. Ta không thể để cho tâm ta có thói quen chứa đựng những tư tưởng này. Tâm mà cứ luôn nghĩ lăng xăng, lo lắng một cách tiêu cực, một cách giận dữ, ích kỷ thì khó mà bỏ được thói quen này. Trong trường hợp đó, sự đè nén là giải pháp tốt nhất.
Ðể đối trị các tư tưởng lăng xăng, lo lắng, Ðức Phật dạy ta hãy học Pháp, học kinh nhiều hơn. Khi ta thấu hiểu được lời dạy của Ngài, ta có thể hướng tâm mình đến đó. Nhớ được lời Phật dạy, thuộc kinh điển Phật, khi ấy hình như ta dễ tìm ra những lời giải đáp rõ ràng, dứt khoát cho các vấn đề của ta hơn. Các câu trả lời của Phật đều dẫn ta đến chỗ giải thoát. Dẫn ta ra khỏi ngã mạn, nhưng không phải dễ dàng để theo. Ðó là lý do tại sao ít người làm theo lời Ngài, ai cũng muốn được thoải mái, cũng dễ dãi với chính mình.
Cách đối trị khác nữa là làm bạn với người khôn ngoan, đứng đắn, bên cạnh những người bạn đạo. Có nghĩa là ta phải cẩn thận trong việc chọn bạn mà giao tiếp. Ðiều đó không có nghĩa là ta phải bỏ hết những người bạn cũ của mình, nhưng ta phải tìm những người ta có thể trao đổi với họ những câu chuyện tinh tế, phấn chấn ta. Ta chọn bạn như thế nào cũng nói lên được con người ta thế ấy.
5. Nghi hoặc
Kẻ thù cuối cùng của ta là lòng nghi hoặc. Ðức Phật đã ví nó giống như một cuộc hành trình đến sa mạc mà không mang theo vật dụng, không có bản đồ, do đó ta cứ đi lẩn quẩn để rồi bị cướp, bị đói khát.
Ngài cũng ví lòng nghi hoặc như một mặt hồ phủ đầy cỏ cây. Làm sao ta có thể nhìn thấy đáy nước với một mặt hồ như thế.
Lòng nghi hoặc thường có mặt như khi ta nghi ngờ về sự Giác ngộ của Ðức Phật, về sự thật của Pháp, về sự diễn giảng Pháp của Tăng đoàn. Nhưng ảnh hưởng nặng nề hơn cả cho sự tiến bộ của bản thân là nghi ngờ về chính khả năng của mình, về trực giác tâm linh của mình.
Lòng tự tin sẽ phát sinh khi ta có thể làm được những điều mà ta đã vạch định. Trong thiền, điều đó có nghĩa là ta có thể ngồi cho đến khi tâm ta chìm sâu trong tĩnh lặng. Như thế ta sẽ có thêm lòng tự tin trong lần tọa thiền sau, vì ta biết là ta có thể làm được điều ta muốn làm với tâm. Ta biết là phần nào ta đã làm chủ được tâm.
Lòng tự tin có nhiều khía cạnh. Ðó không phải là sự càn bướng, mà là một cảm giác tin tưởng rằng mình có thể hoàn toàn dựa vào chính mình. Sự nương tựa đó chỉ có thể xảy ra khi ta có thể làm chủ được tình cảm mình. Không thể có lòng tự tin, khi ta còn lệ thuộc vào tình cảm của mình. Khi ta còn bực tức, giận dữ, lo âu, sợ sệt, thèm muốn, ghen ghét, tham lam, khi tất cả những thứ tình cảm này còn làm chủ ta, thì khó thể tìm được sự an bình. Và khi không an bình, ta đâm ra thiếu tự tin.
Chỉ khi nào mọi thứ tình cảm sân si trong ta đã được điều phục, ta mới có được nội tâm cứng rắn, mới chắc rằng dù bất cứ chuyện gì xảy ra ta sẽ phản ứng nhẹ nhàng, tự chủ, lúc đó ta mới thực sự có lòng tự tin.
Ðó là một khía cạnh quan trọng của lòng nghi hoặc vì chỉ khi ta có lòng tự tin về chính bản thân, lúc đó ta mới có đủ lòng tự tin để đi theo con đường đạo cho đến tận cùng. Tóm lại nhờ vào lòng tự tin, ta mới có thể nói: "tôi có thể làm được, tôi sẽ theo đuổi việc đó tới cùng".
Lòng nghi hoặc thường dấy khởi trong những người không có lòng từ. Nếu không có từ tâm, ta không thể phụng sự một lý tưởng nào, dốc lòng tin theo một con đường đạo nào. Không có từ tâm, ta khó thể dâng hiến cả đời mình cho một lý tưởng nào đó. Nếu ta không thể dâng hiến đời mình cho con đường ta đã chọn thì cũng giống như ta đã thành hôn, nhưng nghĩ mình sẽ gặp được một người tốt hơn người bạn đời của mình. Không thể có một hôn nhân tốt đẹp được khi ta có những ý nghĩ như thế.
Con đường tâm linh còn đòi hỏi một sự dốc tâm hơn thế nữa. Vì chỉ có ta, không có người thứ hai nào bên cạnh góp sức vào để vun bồi cho sự hoà hợp này. Ta phải hiểu con đường từ trong trái tim mình. Như thế sẽ không có nỗi nghi hoặc nào có thể xen vào. Ta sẽ không cần tự hỏi: "không biết Ðức Phật có Giác Ngộ không?". Ðó là một câu hỏi thừa thãi. Khi chúng ta đi theo con đường của Ngài, thì tự ta sẽ khám phá ra thôi.
Muốn trọn vẹn đi theo con đường của Ðức Phật là một việc làm trọn cả cuộc đời. Ðiều đó không có nghĩa là ta không thể có cuộc sống riêng, hay làm những chuyện khác, nhưng nó có nghĩa là tất cả phải làm được trong tinh thần của Pháp. Lúc đó bất cứ ta làm gì cũng là cơ hội để ta học hỏi thêm.
Ðức Phật chỉ cách đối trị cho lòng nghi hoặc cũng giống như trạo cữ, lo lắng; đó là học hỏi thêm Phật Pháp, giao tiếp với bạn hiền, bạn đạo.
-oOo-
Ðức Phật nói người đã bỏ hết được năm điều chướng ngại kể trên là người đã hoàn tất cuộc đời mình, không còn gì để làm nữa. Năm chướng ngại này là tờ hộ chiếu đưa ta đến cõi tái sinh. Chúng là thông hành vĩnh cửu của ta. Ta phải làm một điều gì đó, nếu ta muốn thoát ra khỏi vòng sanh tử này. Chỉ cần một sự thay đổi nhỏ cũng làm cuộc đời ta dễ chịu hơn. Và đó chẳng phải là điều mà tất cả chúng đều đang kiếm tìm sao? Sự thoải mái, hạnh phúc. Nhưng không phải là thứ lạc thọ ta có tìm thấy qua việc thỏa mãn vật chất. Hạnh phúc mà ta kiếm tìm chỉ có thể có được qua tâm an lạc và năm kẻ thù này là nguồn gốc của tâm không an lạc.
Share this article :

0 comments:

Post a Comment